Quốc hội thông qua Luật Dân sốHoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho công tác dân số
Luật Dân số được ban hành nhằm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân số trong tình hình mới, đặc biệt là Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; các định hướng lớn trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII; Kết luận số 149-KL/TW ngày 10/4/2025 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09/9/2025 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân. Trên cơ sở đó, Luật Dân số trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ công tác dân số trong giai đoạn mới.
Mục đích ban hành Luật Dân số là tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về dân số; khắc phục những hạn chế, tồn tại, bất cập trong thực tiễn công tác dân số thời gian qua; đáp ứng yêu cầu phát triển công tác dân số trong bối cảnh đất nước đang đối mặt với nhiều thách thức như mức sinh có xu hướng giảm, mất cân bằng giới tính khi sinh và già hóa dân số diễn ra nhanh.
Quá trình xây dựng Luật Dân số được quán triệt các quan điểm lớn, bảo đảm thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương của Đảng, Nhà nước; kế thừa các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh Dân số; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong công tác dân số; đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật quốc tế, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Luật Dân số quy định phạm vi điều chỉnh tập trung vào các nội dung cốt lõi, gồm duy trì mức sinh thay thế; giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; thích ứng với già hóa dân số; nâng cao chất lượng dân số; công tác truyền thông, vận động, giáo dục về dân số và các điều kiện bảo đảm thực hiện công tác dân số. Đây là những nội dung mang tính nền tảng, định hướng cho toàn bộ hoạt động dân số trong thời gian tới.
So với Pháp lệnh Dân số năm 2003, Luật Dân số kế thừa các quy định còn phù hợp, đồng thời bổ sung, hoàn thiện nhiều nội dung quan trọng. Các chính sách dân số của Nhà nước được quy định theo hướng mang tính nguyên tắc, định hướng tổng thể, bám sát đường lối của Đảng, đồng thời cụ thể hóa các giải pháp về duy trì mức sinh thay thế, thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số theo tiếp cận vòng đời, bảo đảm tính dài hạn, căn cơ và khả thi.
Luật Dân số tạo nền tảng pháp lý vững chắc nhằm bảo đảm quyền lợi và nâng cao chất lượng cuộc sống cho các thế hệ tương lai.Chuyển trọng tâm chính sách từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển
Một trong những điểm mới quan trọng của Luật Dân số là quy định các chính sách duy trì mức sinh thay thế thông qua nhiều biện pháp cụ thể như tăng thời gian nghỉ thai sản, hỗ trợ tài chính khi sinh con, bổ sung đối tượng được mua, thuê mua hoặc thuê nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở. Trên cơ sở khả năng cân đối ngân sách nhà nước, chính quyền địa phương cấp tỉnh được chủ động quy định mức hỗ trợ cao hơn mức do Chính phủ quy định, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
Đối với vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh, Luật Dân số quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức; cấm thông báo, tiết lộ giới tính thai nhi, trừ trường hợp phục vụ chẩn đoán và điều trị bệnh theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế. Đồng thời, Luật khuyến khích đưa các nội dung không trọng nam hơn nữ, không lựa chọn giới tính khi sinh vào hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư; quy định đình chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh đối với các hành vi vi phạm liên quan đến việc tiết lộ giới tính thai nhi để phá thai.
Luật Dân số cũng dành nội dung quan trọng cho việc thích ứng với già hóa dân số và dân số già. Theo đó, Luật nhấn mạnh yêu cầu chủ động chuẩn bị cho tuổi già về sức khỏe, tài chính, tâm lý; khuyến khích tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; học tập, nâng cao kiến thức, kỹ năng nhằm duy trì sức khỏe thể chất, tinh thần và chức năng xã hội. Luật quy định phát triển đa dạng các hình thức chăm sóc người cao tuổi như tự chăm sóc, chăm sóc tại nhà và cộng đồng; đồng thời phát triển nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi trên cơ sở phân tách nhóm chăm sóc chính thức và không chính thức, gắn với cơ chế hỗ trợ và đào tạo phù hợp.
Cán bộ dân số Trạm Y tế Bình Liêu (Quảng Ninh) tư vấn sức khỏe sinh sản - sàng lọc trước sinh, sơ sinh cho người dân.Trong nâng cao chất lượng dân số, Luật Dân số khuyến khích nam, nữ chủ động tiếp cận dịch vụ tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn; khuyến khích khám sàng lọc bệnh bẩm sinh trước sinh và sơ sinh cho phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh theo danh mục bệnh cần sàng lọc. Các quy định về chăm sóc sức khỏe sinh sản bảo đảm quyền tiếp cận đầy đủ, bình đẳng, không phân biệt đối xử; quyền tự quyết của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở hiểu biết, tự nguyện và tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp.
Một điểm nhấn khác của Luật Dân số là quy định rõ về phân cấp, phân quyền, trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương cấp tỉnh trong việc quyết định, tổ chức thực hiện các biện pháp duy trì mức sinh thay thế, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh và thích ứng với già hóa dân số, trên cơ sở tình hình, động thái dân số và điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Luật Dân số thể hiện bước chuyển căn bản trong tư duy chính sách, từ trọng tâm kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Dân số được xác định là trung tâm, vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển; phát triển kinh tế – xã hội tạo điều kiện nâng cao chất lượng dân số, đồng thời các yếu tố dân số được lồng ghép chặt chẽ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ở các cấp.
Việc ban hành Luật Dân số tạo hành lang pháp lý quan trọng để giải quyết các thách thức của công tác dân số, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành; đáp ứng yêu cầu huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho công tác dân số trong tình hình mới. Để Luật đi vào cuộc sống, các bộ, ngành, địa phương cần chủ động tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Luật, góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội, hướng tới mục tiêu phát triển đất nước nhanh và bền vững.