Ấn tượng trong tôi mỗi lần về miền Ninh Thuận là hình ảnh những đoàn phụ nữ Chăm áo dài trắng khăn đội đầu màu đỏ, bước chân trần nối theo nhau lượn trên triền sóng cát. Họ cứ đi như thế, đi như từ cổ tích, đi như từ cổ tháp bước ra. Bước chân dù đang trải qua cuộc gian khó mưu sinh, dù đội trên đầu là gốm Bàu Trúc, thổ cẩm Mỹ Nghiệp hay thuốc chữa bệnh cổ truyền Xuân Hải, thì bước chân họ vẫn nhẹ tênh an nhiên. Không hiểu sao, những cặp mắt đẹp u huyền của người phụ nữ Chăm luôn ẩn dưới bóng khăn choàng vẫn đau đáu nhìn về hướng đại dương. Có nỗi nhớ nào, nỗi ám ảnh nào từ phía khơi xa?…
Từ rất lâu rồi, tôi tự hỏi: Tại sao người Chăm thường chọn lập cư gần biển mà họ không hề làm nghề biển, không đóng thuyền, đánh cá, không giao thông hàng hải? Có người nghĩ rằng, người Chăm mang tâm lý sợ biển. Hóa ra không phải vậy, dân tộc Chăm từng lưu giữ một nền hải sử đồ sộ từ hàng trăm năm trước. Cho đến mốc, khi vua Minh Mạng dẹp xong cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi năm 1834, ông vua thứ hai này của triều Nguyễn đã xuống chiếu cấm người Chăm làm nghề biển mà chỉ được làm nghề nông thuần túy. Từ lệnh cấm năm 1834, người Chăm đã rời xa với biển hoàn toàn và cũng từ đó đành để đứt mất truyền thống viễn dương. Thế nhưng, có một điều ngạc nhiên thú vị, theo lời kể của một thi sĩ người Chăm tôi quen, nếu bà hàng xóm người Kinh nhà anh mỗi khi có chuyện buồn thường than “trời đất ơi”, thì bà mẹ Chăm của chàng nhà thơ lại than là “trời biển ơi” (lingik tathik lơy)! Văn hóa biển, với người Chăm, có lẽ bởi không còn hiện hữu nên đành phải đắng cay tự ngấm về dòng tâm thức của mỗi cư dân. Người Chăm có một nỗi hoài nhớ biển khơi…
Theo cổ sử, đầu thế kỷ V, vua Chămpa là Gangaraja, chỉ tại vị vài ba năm đã nhường ngôi cho cháu của mình để tìm đường sang Ấn Độ tu tập. Đây là vị vua duy nhất của Đông Nam Á thuộc Ấn Độ giáo đã vượt biển Đông sang bờ sông Hằng. Suốt mười bảy thế kỷ tồn tại, người Chăm đã từng làm chủ đại dương. Thời vương quốc còn mang tên Lâm Ấp, trước năm 749, người Chăm đã có những cuộc giao lưu với người Nhật Bản. Sau những chuyến lang bạt kỳ hồ, người Chăm đã biết thâu thái từ nền kiến trúc của các nước láng giềng như Thái Lan, Khmer, Java…để sáng tạo nên nền kiến trúc kỳ vĩ của mình với rất nhiều phong cách. Câu chuyện vua Chế Mân vượt biển lấy công chúa Malaysia là Tapasi làm vợ hay chuyện Po Rome (1627-1651) qua Kelantan để lại mấy thế hệ hậu duệ bên ấy cũng ghi dấu đóng thuyền to vượt qua biển lớn của người Chăm xưa. Trường ca Chăm kể về Po Tang Akauk sinh ra, sống và chết với biển, là một mảnh huyền sử lấp lánh văn hóa biển: “Người có nhà để ngủ/Người cất chỗ trú giữa đại dương/Người có nhà để ở/Người lập nơi ngụ giữa đại dương…”
Đặc biệt, trong lịch sử Chămpa, thương cảng Cù Lao Chàm có vai trò cực kỳ quan trọng trong giao thương đường biển. Nghiên cứu của nhà khảo cổ học Lâm Thị Mỹ Dung cho biết: “Cù Lao Chàm với vị trí thuận lợi của mình đã vươn lên thành thương cảng số một của vương quốc Chămpa. Trên quảng đường dài từ Kra Isthmus (nam Thái Lan, bắc Mã Lai) đến Canton (Quảng Châu, Trung Quốc), chỉ có một trạm dừng chân duy nhất là Chiêm cảng - Cù Lao Chàm, nơi có thể nghỉ ngơi, tích trữ lương thảo, nước ngọt và trao đổi hàng hóa …” Tác giả khác là Nguyễn Đức Hiệp cũng chứng minh: “Cư dân Chăm cổ thường xuyên có mặt ngoài khơi, ngoài đảo xa. Vì thế, họ có sự giao lưu kinh tế, văn hóa với thế giới hải đảo Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương”. Từ rất lâu rồi, các nhà khoa học cũng đã tìm thấy những dấu vết ghi nhận chủ quyền của người Chăm trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và chứng tích cũng ghi nhận họ từng sinh sống lâu đời ở đảo Lý Sơn - Cù Lao Ré…
Nhớ lần trước về thăm làng Bàu Trúc và viếng đền thờ ông Tổ nghề gốm Chăm. Qua nhiều lối đi tắt mọc đầy gai dại, qua nhiều rẫy ngô, cuối cùng trước mặt là cái chòi gỗ nhỏ lợp lá. Bên trong chòi, trên bệ thờ là một bức tượng bằng gốm giản dị. Ngước mắt thành kính về phía điện thờ, Đàng Sinh Khả Ái, cô nghệ nhân làm gốm Bàu Trúc nói nhỏ: “Đền thờ ông Tổ nghề gốm Chăm đấy!” Ôi, hoang phế! Nếu Khả Ái không nói thì không bao giờ tôi có thể hình dung đây là đền thờ ông Po Klong Chanh, người mà theo truyền thuyết, đã cùng vợ của mình là Nailan Mưk dạy dân làm gốm để hôm nay nghề gốm Bàu Trúc được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia…
Lần này thì khác, sau lễ hội Katê năm ngoái, đền thờ Tổ đã được cháu con Bàu Trúc tôn tạo với kinh phí hơn cả tỷ đồng. Điều đó chứng minh rằng nghề gốm nơi đây đang lên. Thấy vui, vì vị Tổ nghề đã được thờ phụng ở nơi trang trọng, nghề gốm Bàu Trúc cũng thực sự phục hưng. Nhào nặn, kết tinh từ tình yêu của đất cát xứ sở, nguồn nước sông Quao và lửa từ củi, rơm đồng bãi, người Bàu Trúc đã tạo nên những sản phẩm gốm có một không hai. Ngắm đồ gốm Bàu Trúc mà liên tưởng đến điều kỳ vĩ. Từ hàng chục thế kỷ trước, bàn tay người thợ Chăm tài hoa đã tạo nên hệ thống di sản kiến trúc sáng chói mà những thành quách, đền tháp, thánh địa, Phật viện còn sót lại hôm nay trên khắp duyên hải miền Trung là những minh chứng. Trong cái nắng như đổ lửa của đất Phan Rang, cổ thành Pangduranga trong quá khứ, tôi đứng ngắm ngọn tháp Pokluang Garai mà mơ màng về một thời xa thẳm. Trong Ấn Độ giáo, tháp Chăm gọi là Sikhara nghĩa là đỉnh núi nhọn, biểu thị của núi Mêru, kiến trúc tiêu biểu được xây dựng theo tín ngưỡng tam vị nhất thể của đạo Bà La Môn. Núi Mêru, theo thần thoại, có nhiều đỉnh cao thấp khác nhau, vị thần tối cao ngự trên đỉnh cao nhất, các vị thần khác tùy theo thứ bậc mà ngự ở những ngọn núi thấp hơn.
Đứng giữa đất trời Bàu Trúc, ngắm đôi bàn tay quen nghề luyện gốm của cô bạn Đàng Sinh Khả Ái dâng cao cung kính trước điện thờ ông Tổ nghề Po Klong Chanh, tôi như thấy hiện thân hình ngọn tháp. Ngọn tháp lại hiện thân một hải đăng nhắc nhở về ký ức văn hóa khơi xa. “Chăm là một dân tộc sẵn máu phiêu lưu”, một thi sĩ Chăm khái quát. Nghe anh nói, dù đang bước chân hướng núi mà tôi lại ngoái về phía biển, tìm một điều gì đó trên sóng bạc xa xôi. Phải chăng là bóng dáng những chiếc thuyền Chăm thấp thoáng ngoài xa, những bóng thuyền đã hoàn toàn lùi về ký ức. Chăm xa biển, xa một nền thương mại vượt đại dương, nhưng tư liệu hải sử cổ xưa vẫn lưu đó đây và ngấm vào huyết quản. Để bây giờ, thói quen phiêu lưu của người Chăm vẫn tồn lưu trong máu. Tôi cảm nhận điều đó từ hình ảnh những người Chăm du mục với đàn cừu khắp thảo nguyên mênh mang; những người Chăm mang túi thuốc cổ truyền, gánh đồ gốm và thổ cẩm lang thang khắp chốn phố, ngõ quê. Người Chăm biết vượt biển đi buôn từ trong cổ sử và ngày nay vẫn thế. Họ ham đi buôn, cốt để làm kế mưu sinh một phần nhưng cái phần khác không kém quan trọng là thỏa chí tiêu dao…
UÔNG THÁI BIỂU