Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Thời sự

Phát huy truyền thống, tăng cường liên kết, tạo đột phá phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng

PV - 14:15, 09/05/2024

Sáng 9/5, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính - Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Hồng chủ trì Hội nghị lần thứ ba của Hội đồng. Tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trao Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch cho lãnh đạo các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo hội nghị.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo hội nghị.

Cùng dự có các đồng chí Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội; Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng; lãnh đạo các bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương; các chuyên gia, nhà khoa học.

Theo chương trình, Hội nghị công bố Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 4/5/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 8/2/2023 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị; tình hình triển khai một số dự án quan trọng, liên kết vùng; thảo luận Kế hoạch điều phối liên kết vùng năm 2024; báo cáo rà soát các cơ chế, chính sách đặc thù của vùng.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 4/5/2024 phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, quan điểm phát triển vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng, là động lực phát triển hàng đầu, có vai trò dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước để tạo đột phá phát triển nhanh, bền vững. Phát triển vùng phải phát huy vai trò và khai thác hiệu quả các thế mạnh về địa chính trị, địa kinh tế, điều kiện tự nhiên và các giá trị văn hóa, lịch sử; các hành lang, vành đai kinh tế, cực tăng trưởng, trung tâm kinh tế, hệ thống đô thị.

Phát triển và cơ cấu lại kinh tế vùng phải dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của vùng; phải phát huy hiệu quả các trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ, các trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu quốc gia để chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng công nghiệp và dịch vụ hiện đại, nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn, bảo đảm vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái dẫn đầu cả nước. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, bảo đảm tổ chức không gian hợp lý, hiệu quả, thống nhất, liên kết nội vùng, liên vùng, khu vực và quốc tế, phát huy tối đa những lợi thế của vùng và tác động lan tỏa của các vùng động lực, cực tăng trưởng, các hành lang kinh tế và các cảng quốc tế.

Quang cảnh hội nghị.
Quang cảnh hội nghị.

Tầm nhìn đến năm 2050, đồng bằng sông Hồng là vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái, thu nhập cao; là trung tâm kinh tế, tài chính lớn mang tầm khu vực và thế giới; trung tâm hàng đầu của cả nước về văn hóa, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Các ngành công nghiệp phát triển với công nghệ hiện đại, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp mới, công nghệ cao và chủ động trong các khâu nghiên cứu, thiết kế, chế tạo.

Hình thành các trung tâm dịch vụ lớn mang tầm khu vực và thế giới về thương mại, du lịch, tài chính, logistics ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả cao. Phát triển hệ thống đô thị vùng theo hướng xanh, thông minh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có môi trường và chất lượng sống đô thị cao, có vai trò, vị thế xứng đáng trong mạng lưới đô thị châu Á-Thái Bình Dương. Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố kết nối toàn cầu; kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển toàn diện, đặc sắc và hài hòa, tiêu biểu cho cả nước; ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực và thế giới.

Theo quy hoạch vừa được phê duyệt, tổ chức các hoạt động kinh tế-xã hội của vùng thành 2 tiểu vùng (phía bắc sông Hồng và phía nam sông Hồng) với 1 vùng động lực quốc gia (bao gồm thành phố Hà Nội và các địa bàn cấp huyện dọc theo trục Quốc lộ 5 và Quốc lộ 18 qua các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh), 4 cực tăng trưởng (gồm Thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hải Phòng) và 5 hành lang kinh tế (2 hành lang kết nối quốc tế; 3 hành lang kết nối vùng).

Thủ tướng Phạm Minh Chính dự và chỉ đạo hội nghị.
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự và chỉ đạo hội nghị.

Tiểu vùng phía bắc gồm 7 tỉnh và thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc. Phát triển tiểu vùng phía bắc gắn chặt với phát triển vùng Thủ đô Hà Nội. Tập trung phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, chế tạo có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là công nghiệp cơ điện tử, chíp bán dẫn, sản phẩm công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, sản xuất robot. Phát triển dịch vụ, thương mại, tài chính-ngân hàng, dịch vụ vận tải-logistics, du lịch tầm quốc tế; dẫn đầu cả nước về giáo dục và đào tạo, khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo, văn hóa và thể dục thể thao, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, an ninh và trật tự xã hội, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân.

Tiểu vùng phía nam gồm 4 tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình: Phát triển các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế; phát triển các ngành nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn; công nghiệp bảo quản, chế biến nông sản, công nghiệp hỗ trợ, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa, tâm linh gắn với bảo vệ môi trường; phát triển một số lĩnh vực dịch vụ như vận tải, kho bãi và nhất là dịch vụ du lịch kết nối với tiểu vùng Bắc Trung Bộ. Bảo vệ tốt môi trường sinh thái vùng bờ và các nguồn lợi thủy, hải sản; bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rừng phòng hộ ven biển.

Phát biểu ý kiến tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, sau khi có Nghị quyết 30-NQ/TW, tư duy, phương pháp luận và các tiếp cận thực hiện Nghị quyết có cải tiến, thay đổi hơn so trước đây: chúng ta đã thành lập Hội đồng điều phối vùng, ban hành ngay Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW. Hội đồng điều phối vùng đã hoạt động thực sự. Dựa trên Nghị quyết 30, chúng ta xây dựng các chương trình, nhiệm vụ cụ thể trong Chương trình hành động; mỗi phiên họp lại rà soát các nhiệm vụ cụ thể và định hướng các nhiệm vụ sau đó.

Hội nghị này đánh giá sau 1 năm thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW, những gì làm được, chưa làm được, những gì phải tiếp tục làm; từ sau Hội nghị Hội đồng lần thứ 2 đến nay, chúng ta tiến thêm một bước đã phê duyệt được Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng biểu dương Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã rất nỗ lực hoàn thành Quy hoạch; công việc đã làm và kết quả là rất cụ thể, không hình thức. Chính phủ đã có Chương trình hành động, triển khai tích cực, có sơ kết, đánh giá và xây dựng Quy hoạch theo Luật Quy hoạch với tinh thần rất nghiêm túc. Bộ Kế hoạch và Đầu tư rất trách nhiệm, làm việc ngày đêm; Hội đồng thẩm định hết sức trách nhiệm vì sự phát triển chung của đất nước.

Thủ tướng đề nghị các đại biểu có thêm các ý kiến sau khi công bố Quy hoạch nhằm cụ thể hóa tầm nhìn, quan điểm, mục tiêu tại Nghị quyết phát triển vùng thành Chương trình hành động và Quy hoạch; cụ thể hóa phương hướng, bố trí không gian phát triển vùng. Hiện nay, chúng ta đã hoàn thành cả 6 Quy hoạch vùng; triển khai các dự án mang tính kết nối, quan trọng giữa các tỉnh trong vùng, liên kết vùng, liên kết ngành, đẩy nhanh thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm đột phá chiến lược nhằm phát huy tối đa tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh; xác định rõ, huy động và phân bổ nguồn lực để thực hiện.

Thủ tướng mong các đại biểu góp ý Báo cáo sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW, làm sâu sắc hơn các giải pháp thực hiện Quy hoạch; nêu các vấn đề khó, thách thức chủ yếu của vùng, cần bổ sung hoàn thiện vấn đề gì? Đặc biệt là thể chế, cơ chế, chính sách, nguồn lực để thực hiện. Thể chế là vấn đề rất quan trọng, thể chế chính là động lực, nguồn lực, là 1 trong 3 đột phá chiến lược phải thực hiện; các nhiệm vụ trọng tâm cụ thể cần giao các bộ, ngành địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng để thực hiện Quy hoạch vùng với hiệu quả cao nhất theo Nghị quyết 30; các vấn đề đặt ra trong công tác đặt ra trong công tác điều phối vùng hiện nay.

Thủ tướng Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trao Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch cho lãnh đạo các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng.
Thủ tướng Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trao Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch cho lãnh đạo các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng.

Thủ tướng đề nghị các đại biểu đi thẳng vào vấn đề, ngắn gọn; nêu thẳng cần tập trung những vấn đề gì đặt trong tổng thể Nghị quyết 30, Chương trình hành động của Chính phủ với tinh thần dễ làm trước, khó làm sau, đi từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài; làm việc nào chắc việc đó, cái gì đã chắc, đã rõ thì làm, không cầu toàn, không nóng vội; đưa ra cái gì thì phải làm bằng được.

Tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trao Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch cho lãnh đạo các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng.

Thảo luận tại hội nghị, lãnh đạo các tỉnh trong vùng đều bày tỏ vui mừng vì Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch vùng. Tỉnh Quảng Ninh bày tỏ rất chú trọng thúc đẩy liên kết vùng với các địa phương trong vùng; tỉnh Nam Định, Thái Bình bày tỏ quyết tâm triển khai tốt Quy hoạch; mong có các cơ chế, chính sách đặc thù tháo gỡ khó khăn từ cơ chế quản lý.

Kiến trúc sư Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam (VUPDA) đánh giá, đây là đồ án được nghiên cứu rất công phu. Đây là vùng hết sức quan trọng, có Thủ đô Hà Nội, vùng có bờ biển dài, có những cảng biển quốc tế lớn, nước sâu, thuận lợi phát triển kinh tế biển, du lịch; có các sân bay quan trọng, có cửa khẩu quốc tế, có nhiều di sản thiên nhiên. Chúng ta đang hướng đến thủ đô toàn cầu, do đó liên kết vùng cần làm rõ hơn nữa, Quy hoạch vùng Thủ đô Hà Nội với Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng. Chúng ta có quy hoạch tốt, điều quan trọng là cách triển khai. Muốn phát triển vùng thì vai trò Thủ đô Hà Nội là quan trọng nhất, do đó Hà Nội phải triển khai nhanh nhất hệ thống tàu điện metro thì mới giải được bài toán vận chuyển hành khách; quan tâm cảnh quan thiên nhiên, kiến trúc hai bên sông Hồng; kết nối Hà Nội với phía nam để giải quyết mạch máu giao thông vì các cửa ngõ thường xuyên bị ùn tắc; sớm triển khai Vành đai 5 Thủ đô Hà Nội; quan tâm vấn đề môi trường, xử lý nước thải, làm sạch không khí.

Chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên đánh giá, Quy hoạch vùng tạo ra khí thế cho vùng, nếu chỉ giới hạn phạm vi địa phương thì nhiều sức mạnh của vùng bị hạn chế. Nhiều bài học có tính vùng đã được rút ra: đó chính là vùng Đồng bằng sông Hồng được tập trung giải quyết đầu tư phục vụ liên kết vùng tốt nhất. Đây là bài học rất tốt trong việc tạo ra động lực để so sánh vùng Đồng bằng sông Hồng với các vùng khác, như vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Sau đây, cần tập trung tăng cường kết nối số.

Đại diện lãnh đạo các tỉnh, thành phố tham dự hội nghị.
Đại diện lãnh đạo các tỉnh, thành phố tham dự hội nghị.

Theo chuyên gia Trần Đình Thiên, nếu hoàn thiện được tuyến hành lang ven biển thì vùng Đồng bằng sông Hồng sẽ phát triển nhanh. Vùng này có lợi thế về công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp văn hóa, thí dụ như Hà Nội, Ninh Bình. Trong vùng, Hà Nội có vị trí “tọa độ đỉnh” của phát triển, có khả năng dẫn dắt, lan tỏa. Ngoài ra, có hai địa phương có lợi thế rất lớn là Hải Phòng và Quảng Ninh. Vùng Đồng bằng sông Hồng phải có hình mẫu phát triển quốc gia vượt trước; do đó cần thiết lập Khu thương mại tự do thế hệ mới ở Quảng Ninh, Hải Phòng để nâng cao năng lực cạnh tranh.

Phát biểu ý kiến tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá, Chính phủ, Hội đồng, các bộ, ngành, địa phương trong vùng đã triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị, trong đó có Nghị quyết 30-NQ/TW rất nghiêm túc, bài bản, lớp lang, rút kinh nghiệm hạn chế, bất cập, phát huy kinh nghiệm quý, cách làm tốt từ các Nghị quyết trước đây, bảo đảm đúng quy trình, quy định hơn; đặc biệt chúng ta quán triệt chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; đã bắt tay ngay vào lập Quy hoạch của các vùng, đến ngày 5/5 vừa qua, đã hoàn thành cả 6 Quy hoạch của 6 vùng, tạo ra tư duy mới, tầm nhìn mới, cách làm mới, niềm tin mới, tầm nhìn mới, từ đó tạo ra giá trị mới.

Thủ tướng nhấn mạnh, quy hoạch phải chỉ ra tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh để chúng ta xây dựng cơ chế, chính sách phát huy tối đa điểm này, chuyển thành nguồn lực cho đất nước, cho vùng, cho tỉnh; chỉ rõ những hạn chế, bất cập, mâu thuẫn, thách thức, yếu kém, khuyết điểm để từ đó có nhiệm vụ hoá giải để phát triển nhanh và bền vững.

Hoàn thiện quy chế tổ chức làm việc của Hội đồng, phân công Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch Hội đồng điều phối các vùng. Hình thành bộ máy của Hội đồng, Tổ giúp việc; cùng với đó phê duyệt quy hoạch các địa phương trong vùng; hoàn thiện một số thể chế, cơ chế, chính sách, đặc biệt liên quan Thủ đô Hà Nội; khởi công xây dựng nhiều dự án, xác định nhiều dự án có tính chất liên kết vùng, nhất là giao thông; chuẩn bị khởi công các dự án như đường cao tốc từ Ninh Bình sang Nam Định, đi Thái Bình, Hải Phòng, tạo xung lực mới, không gian phát triển mới, kết nối các miền di sản với nhau. Dự án này đã được chỉ đạo hết sức quyết liệt. Thủ tướng hoan nghênh Hải Phòng, Quảng Ninh chủ động thực hiện kết nối với các tỉnh. Chúng ta cũng đã xây dựng cơ chế, chính sách trình Quốc hội ban hành Nghị quyết có các cơ chế đặc thù trong vùng.

Thủ tướng nêu rõ, về kết quả phát triển kinh tế-xã hội vùng thời gian qua: tăng trưởng được thúc đẩy; tăng trưởng GRDP năm 2023 đạt 6,28%, xếp thứ 3/6 vùng (cả nước đạt 5,05%), quy mô GRDP chiếm 30,4% GDP cả nước (sau vùng Đông Nam Bộ). GRDP quý I tăng 6,16%, cao hơn mức tăng GDP cả nước là 5,66%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh. Chúng ta lựa chọn 2 mục tiêu và thực hiện tốt, đó là vừa thúc đẩy tăng trưởng, vừa kiểm soát lạm phát, phù hợp chủ trương, đường lối của Đảng. Kết quả thực hiện Nghị quyết 30 là thực chất, hiệu quả, "cân, đong, đo, đếm" được, tạo ra khí thế, động lực mới, sáng tạo, đổi mới hơn, từ đó thấy tự hào hơn, trách nhiệm hơn, nhận thức không có việc gì khó nếu có sự quyết tâm cao.

Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng biểu dương, đánh giá cao sự nỗ lực, cố gắng của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân trong vùng, sự hỗ trợ của các bộ, ngành đối với vùng. Nhấn mạnh một số hạn chế, Thủ tướng nêu rõ, vùng phát triển chưa tương xứng tiềm năng; thiếu cơ chế, chính sách đột phá, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành công nghiệp, nhất là ngành mới nổi; hạn chế về tính liên kết trong hạ tầng giao thông, sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi vận tải, đa dạng hoá sản xuất, liên kết doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI còn lỏng lẻo; hạn chế trong bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng; hạn chế trong ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; hạn chế quản lý đất đai, môi trường, phòng, chống biến đổi khí hậu…; phát triển văn hoá chưa đáp ứng nhu cầu, chưa phát huy bản sắc văn hoá của vùng, tính liên kết còn lỏng lẻo.

Thủ tướng nêu rõ các bài học kinh nghiệm sau 1 năm thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW, đó là phải bám sát thực tiễn, vận dụng sáng tạo các đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phù hợp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường của mỗi tỉnh, thành phố nhưng phải liên kết để phát triển; có chính sách thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản lý thông minh. Thủ tướng nêu rõ, việc ban hành Quy hoạch là cần thiết nhưng điều quan trọng là tổ chức thực hiện đúng Quy hoạch với tinh thần vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không cầu toàn, không nóng vội; quy hoạch có tính lâu dài, mang tính chiến lược, có tư duy đổi mới nhưng thực hiện quy hoạch phải phân kỳ, căn cứ nguồn lực, phải chọn điểm ưu tiên chứ không dàn trải.

Thủ tướng nhấn mạnh phương châm của vùng là “Truyền thống, liên kết, bứt phá, bao trùm, toàn diện và bền vững”; lấy con người là trung tâm, chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực cho sự phát triển; dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh các động lực truyền thống, dựa vào các ngành mới nổi là chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ; khắc phục các hạn chế, bất cập đó là già hoá dân số; tài nguyên văn hoá, con người phải được khai thác hiệu quả; phải bảo đảm vấn đề môi trường; khắc phục hạn chế, bất cập về nguồn nhân lực chất lượng cao.

Đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành tham dự hội nghị.
Đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành tham dự hội nghị.

Thủ tướng yêu cầu đẩy mạnh thông tin truyền thông quy hoạch để người dân nắm bắt, hiểu và thực hiện theo với tinh thần "Dân biết-Dân hiểu-Dân tin-Dân theo-Dân làm"; cần làm công khai quy hoạch để người dân, doanh nghiệp nắm rõ, nhân dân giám sát thực hiện quy hoạch. Theo Thủ tướng, có đồ án tốt thì có dự án tốt, có dự án tốt sẽ kêu gọi được nhà đầu tư tốt, có nhà đầu tư tốt sẽ có hiệu quả cao, mang lại lợi ích lớn hơn. Tuy nhiên, Thủ tướng vẫn nhấn mạnh, sức mạnh chính là từ nhân dân; đồng thời mong các địa phương dành những khu vực, vị trí đẹp, thuận lợi để phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để tạo công ăn việc làm, sinh kế cho nhân dân.

Về hoạt động của Hội đồng điều phối vùng, Thủ tướng đề nghị các chủ thể liên quan phát huy tinh thần trách nhiệm, có sự điều phối tốt; đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư tích cực, giúp việc cho Hội đồng; làm bất cứ việc gì cũng phải quyết liệt, bằng cái tâm, sự đam mê, nhiệt huyết vì sự phát triển chung, lợi ích quốc gia, dân tộc, nhân dân. Thủ tướng yêu cầu các lãnh đạo, cán bộ, đảng viên phải hy sinh, dành thời gian, công sức chăm lo công việc chung. “Khi cần, Bí thư hay Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cũng phải xuống từng hộ dân để vận động, giải quyết”, Thủ tướng nêu ví dụ, đồng thời nêu rõ, quá trình làm phải tôn trọng lợi ích hợp pháp của nhân dân.

Về các nhiệm vụ giải pháp trọng tâm, Thủ tướng nhấn mạnh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Kế hoạch thực hiện Quy hoạch, bám sát nhiệm vụ, không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần; Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, tập hợp, báo cáo những vấn đề vượt thẩm quyền; xác định các dự án trọng tâm, trọng điểm, huy động nguồn lực bằng các nguồn lực hợp pháp khác nhau, trong đó tập trung huy động nguồn lực của xã hội, nhân dân, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, kích hoạt mọi nguồn lực của xã hội; tăng thu, tiết kiệm chi; coi trọng hợp tác công tư trong phát triển hạ tầng chiến lược như giao thông, y tế, giáo dục, văn hoá... Về cơ chế, chính sách đặc thù, Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu các ý kiến tại Hội nghị để xây dựng phù hợp, “thực sự là đặc thù”.