Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Tin tức

Triển khai Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị: Để Trung du, miền núi Bắc Bộ phát triển xanh, bền vững và toàn diện

PV - 22:50, 26/08/2022

Ngày 27/8, tại TP. Lào Cai, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ chủ trì Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; xúc tiến đầu tư vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

Rực rỡ mùa vàng Mù Cang Chải
Rực rỡ mùa vàng Mù Cang Chải

Hội nghị có sự tham gia của lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và 14 tỉnh Trung du, miền núi Bắc Bộ, các đối tác, nhà đầu tư… nhằm bàn cách triển khai 6 nhóm nhiệm vụ giải pháp, hiện thực hóa các chỉ tiêu tăng trưởng mà Chương trình hành động của Chính phủ (ban hành kèm theo Nghị quyết số 96/NQ-CP ngày 1/8/2022) đã đề ra.

Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị ra đời, thể hiện rõ khát vọng, ý chí, quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước, Nhân dân ta, nhất là cấp ủy, chính quyền, đồng bào các dân tộc trong vùng. Nghị quyết số 11-NQ/TW xác định rõ, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ trở thành vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện; là hình mẫu phát triển xanh của cả nước, trong đó có khoảng 50% số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá trong cả nước; bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng an ninh được bảo đảm vững chắc; tổ chức Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; khối Đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường.

Tiếp nối và phát huy thành quả của Nghị quyết 37-NQ/TW

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc bao gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Tổng diện tích toàn vùng khoảng 116.898 km², chiếm 35% diện tích tự nhiên của cả nước, nhiều tài nguyên, khoáng sản quý hiếm; có hơn 30 dân tộc anh em đang sinh sống, dân số toàn vùng 14,7 triệu người, chiếm khoảng 15,2% dân số cả nước.

Đây là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của quốc gia. Đồng thời, đây cũng là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý, hiếm và diện tích đồi rừng rộng lớn, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp và nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào các DTTS để phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ.

Có thể thấy, Nghị quyết 11-NQ/TW đã phản ánh bức tranh toàn diện, chân thực những thành tựu, kết quả sau 17 năm triển khai Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020; khẳng định sự thay đổi tương đối toàn diện về KT-XH, đặc biệt là đã kiến tạo không gian phát triển hài hòa, đồng bộ giữa các vùng, miền; thể hiện tầm nhìn bao quát và chiến lược của Đảng ta.

Nơi địa đầu của Tổ quốc, là một địa phương rất khó khăn và nghèo nhất cả nước, tỉnh Hà Giang đã tổ chức triển khai nghị quyết hiệu quả, có nhiều cách làm sáng tạo, nhận thức ngày càng rõ rệt về vai trò địa chính trị quan trọng và khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế, gắn với liên kết vùng.

Đến nay, Hà Giang có kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đạt mức bình quân 8,08%/năm; năm 2020 thu ngân sách trên địa bàn tăng 13,7 lần so với năm 2004, tổng sản phẩm bình quân đầu người (GRDP/người) tăng 10,8 lần so với năm 2004; 100% số xã có đường ô tô cứng hóa đến trung tâm xã; 86,2% các thôn, bản có đường đi được xe cơ giới đến trung tâm; 94,4% số hộ dân ở nông thôn được sử dụng điện; 88,2% dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.

100% xã có trường lớp học kiên cố, tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia đạt 45,3%; 100% xã, phường đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 98,5%; tỷ lệ hộ nghèo từ 43,73% năm 2006 giảm còn 21,44% cuối năm 2020; tỷ lệ che phủ rừng tăng 16,3%.

Đồng chí Đặng Quốc Khánh - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội khóa XV tỉnh Hà Giang bày tỏ, Đảng bộ, Nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang rất phấn khởi sau khi Bộ Chính trị tổng kết Nghị quyết số 37-NQ/TW và ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW, sẽ giúp cho các tỉnh phát triển nhanh và bền vững hơn, từng bước thu hẹp trình độ phát triển và mức sống của Nhân dân trong vùng so với các vùng trong cả nước.

Nằm ở vị trí tiền tiêu của biên giới phía Bắc, Lào Cai có vai trò chiến lược trong phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an ninh để trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, đối ngoại quan trọng của vùng Tây Bắc. Lào Cai cũng là cầu nối quan trọng về thông thương kinh tế, giao lưu văn hóa không chỉ giữa Việt Nam và Trung Quốc mà của cả các nước ASEAN với thị trường vùng Tây Nam Trung Quốc; là trung tâm trung chuyển và dịch vụ Logistics quan trọng trên tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, một kết nối quan trọng của hành lang Bắc - Nam trong hợp tác các nước Tiểu vùng sông Mê Kông.

Phát biểu tại Hội nghị quán triệt, triển khai Nghị quyết 11-NQ/TW, đồng chí Đặng Xuân Phong - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai cho biết, được sự quan tâm đặc biệt, thường xuyên của Trung ương Đảng, cùng với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và Nhân dân các dân tộc trên địa bàn, Lào Cai đã vươn mình trở thành tỉnh phát triển khá của vùng. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong 30 năm đạt gần 10%/năm; văn hóa - xã hội phát triển toàn diện; tốc độ giảm nghèo nhanh; đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt; bộ mặt từ đô thị đến nông thôn có nhiều đổi mới. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được thực hiện toàn diện, có hiệu quả. Quốc phòng, an ninh luôn được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng được tăng cường, mở rộng.

Lạng Sơn là vùng đất cửa ngõ, “phên dậu”, địa đầu của Tổ quốc, trong giai đoạn 2015 - 2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân hằng năm ước đạt 5,45%. Trong đó: Ngành nông, lâm nghiệp tăng 1,24%; công nghiệp - xây dựng tăng 12,76%; dịch vụ tăng 5,07%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 0,83%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng và tích cực, ngành nông, lâm nghiệp chiếm 20,83%, công nghiệp - xây dựng 23,55%, dịch vụ 50,87%. GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 44,5 triệu đồng (gấp 1,44 lần so với năm 2015), tương đương 1.937 USD. Văn hóa - xã hội tiếp tục phát triển tích cực, đời sống tinh thần của các tầng lớp Nhân dân ngày càng nâng cao; tình hình chính trị, an ninh, trật tự an toàn xã hội luôn ổn định, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững.

Là tỉnh giao lưu KT-XH giữa vùng Trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ, tỉnh Thái Nguyên là điểm nút giao lưu thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình dẻ quạt kết nối với các tỉnh, thành phố trong vùng và cả nước. Với vị trí thuận lợi tiếp giáp vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Thủ đô Hà Nội và nằm trên các trục kinh tế quan trọng, Thái Nguyên có tiềm năng trở thành trung tâm Logistics, trung tâm dịch vụ du lịch - thương mại tổng hợp, trung tâm giáo dục, y tế chất lượng cao của Vùng Trung du và miền núi phía Bắc; hình thành các khu công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và trung tâm kinh tế đô thị giảm tải cho Thủ đô Hà Nội.

Tỉnh Hòa Bình có vị trí chiến lược rất quan trọng, cầu nối giữa vùng Tây Bắc với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ. Hòa Bình đã tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH: Cơ bản hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra; nhiều chỉ tiêu KT-XH đạt và vượt. Năm 2021 mặc dù trong bối cảnh có nhiều khó khăn nhưng thu ngân sách nhà nước vẫn tăng 23% so với cùng kỳ năm trước; có 9 xã về đích nông thôn mới, nâng tổng số xã về đích nông thôn mới lên 65 xã (chiếm 53,3% tổng số xã). Đến nay có 3 đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (đứng thứ 3 các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, đứng đầu các tỉnh Tây Bắc về xây dựng nông thôn mới). Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch tích cực. Phát triển giáo dục, đào tạo, chăm lo đời sống Nhân dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm 2% (từ 8,6% năm 2020 xuống còn 6,6% năm 2021)...

Bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ cũng còn không ít hạn chế, yếu kém. Tiềm năng, lợi thế của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả. Trung du và miền núi Bắc Bộ vẫn là "vùng trũng" trong phát triển và là "lõi nghèo" của cả nước, liên kết vùng còn yếu. Khoảng cách về trình độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người trong nội vùng so với bình quân chung của cả nước tiếp tục gia tăng.

Quy mô kinh tế còn nhỏ; tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chất lượng chưa cao. Cơ cấu nội ngành và giữa các ngành kinh tế chuyển dịch còn chậm. Một số phong tục, tập quán, hủ tục lạc hậu còn tồn tại. Chất lượng giáo dục và đào tạo ở một số địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp hơn mức trung bình của cả nước. Một số chỉ số về chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn ở mức thấp. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở vùng đồng bào DTTS; kết quả giảm nghèo chưa bền vững. Tình hình an ninh, trật tự trên một số lĩnh vực, tại một số địa bàn chưa thực sự vững chắc…

Phát triển kinh tế vùng nhanh và bền vững hơn

Để thực hiện có kết quả Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách mạng, lòng yêu nước; tinh thần chủ động, sáng tạo; ý thức tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng; quyết tâm vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng bằng lòng, trung bình chủ nghĩa, không cam chịu đói nghèo, thua kém các tỉnh khác, vùng khác. Đồng thời, tăng cường sự hỗ trợ của Trung ương, sự hợp tác, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước để phát triển kinh tế vùng nhanh và bền vững hơn; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng đạt mức cao hơn bình quân chung của cả nước trên cơ sở từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng.

Trên cơ sở đổi mới về tư duy và nhận thức, đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển vùng, các cơ quan ở Trung ương phải tăng cường phối hợp với Hội đồng vùng và các địa phương trong vùng, khẩn trương xây dựng, hoàn thiện, ban hành và triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên, có tính đặc thù cho phát triển vùng; xây dựng và tổ chức thực hiện thật tốt Quy hoạch phát triển vùng giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo hướng xanh, bền vững và toàn diện; phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia.

Các địa phương đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển; ưu tiên bố trí nguồn vốn ngân sách nhà nước, kết hợp với huy động các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển các công trình trọng điểm có sức lan tỏa, giải quyết các vấn đề phát triển vùng và liên vùng; phát triển vùng toàn diện cả về kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh nơi địa đầu của Tổ quốc.

Theo Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh, liên kết phát triển vùng là tất yếu, là khách quan của kinh tế thị trường; tuy nhiên, cần phải thay đổi về tư duy và hành động của cả hệ thống chính trị để liên kết vùng thực sự là động lực của tăng trưởng nhất là đối với vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.

Các địa phương trong vùng đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan trong hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW; phấn đấu để các thôn, bản ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đều có đảng viên và chi bộ đảng; thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cần xây dựng, bảo đảm chất lượng, số lượng, cơ cấu hợp lý, có sự chuyển giao, kế thừa chặt chẽ giữa các thế hệ; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể Nhân dân…

Ts. Nguyễn Chí Dũng - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, vấn đề quy hoạch tổng thể quốc gia nói chung và quy hoạch vùng, liên kết vùng nói riêng nếu đúng và trúng sẽ xác định được con đường đi một cách ngắn nhất, khoa học nhất trong việc tổ chức không gian phát triển, định hướng phát triển, cách thức phát triển phù hợp bối cảnh, tình hình của từng giai đoạn. Để xây dựng và thực hiện quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh có chất lượng và tầm nhìn thì phải có sự gắn kết các địa phương trong vùng để tận dụng được lợi thế sẵn có, đồng thời hạn chế được việc triệt tiêu các nguồn lực của từng địa phương.

Như vậy, việc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm sớm đưa Nghị quyết quan trọng vào cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Tin cùng chuyên mục
Tập huấn vận hành, sử dụng Sổ tay Đảng viên điện tử cho đảng viên thuộc Đảng bộ Ủy ban Dân tộc

Tập huấn vận hành, sử dụng Sổ tay Đảng viên điện tử cho đảng viên thuộc Đảng bộ Ủy ban Dân tộc

Sáng 25/4, tại Hà Nội, Đảng bộ cơ quan Ủy ban Dân tộc (UBDT) phối hợp với Đảng bộ Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức tập huấn vận hành, sử dụng Sổ tay Đảng viên điện tử cho toàn thể đảng viên thuộc Đảng bộ cơ quan UBDT. Chủ trì buổi tập huấn có đồng chí Cầm Văn Thanh - Phó Bí thư Đảng bộ, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp UBDT. Đồng chí Mai Anh Chung - Ủy viên Ban Thường vụ, Chánh Văn phòng Đảng ủy Bộ Thông tin và Truyền thông là Báo cáo viên tại buổi tập huấn.