Mô hình ứng dụng chế phẩm vi sinh xử lý rơm rạ sau thu hoạch góp phần giảm từ 15–20% chi phí sản xuất (Ảnh IT)Tại Hợp tác xã Nông nghiệp - Dịch vụ Tân Tiến (phường Vị Tân, TP Cần Thơ), mô hình thí điểm sử dụng chế phẩm vi sinh Bio Lacto EM để xử lý rơm rạ sau thu hoạch đã được triển khai trên diện tích 75 ha trong vụ thu đông 2025, với sự tham gia của 55 hộ nông dân.
Trước đây, hầu hết nông dân trong khu vực có thói quen đốt rơm rạ để làm sạch ruộng nhanh, chuẩn bị cho vụ sau. Tuy nhiên, hành động này gây ô nhiễm không khí, phá hủy cấu trúc đất và làm mất nguồn hữu cơ quý giá. Giờ đây, thay vì đốt bỏ, bà con được hướng dẫn sử dụng chế phẩm vi sinh để phân hủy rơm rạ ngay tại ruộng, biến chúng thành phân hữu cơ, cải tạo đất, đồng thời hạn chế sâu bệnh và cỏ dại cho vụ kế tiếp.
Ông Trương Văn Lẹ, Giám đốc HTX Tân Tiến chia sẻ: “Chúng tôi được Công ty cổ phần Hữu cơ sinh học Phương Đông hỗ trợ chế phẩm miễn phí. Sau 15–20 ngày, rơm rạ được phân giải hoàn toàn, mặt ruộng sạch, đất tơi xốp. Điều đặc biệt là không cần phải cày bừa nhiều, tiết kiệm đáng kể chi phí.”
Theo đánh giá sơ bộ từ Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp Cần Thơ, mô hình cho năng suất lúa ổn định, đạt 5,5–6 tấn/ha, với lợi nhuận trung bình khoảng 13 triệu đồng/ha. Điều đáng chú ý là tổng chi phí sản xuất của các hộ tham gia mô hình giảm từ 15–20% so với phương thức canh tác truyền thống.
Các khoản giảm bao gồm: giảm công lao động và chi phí cày xới do không cần xử lý rơm rạ bằng máy móc nặng; giảm lượng phân bón hóa học nhờ phân giải hữu cơ tự nhiên; giảm thuốc bảo vệ thực vật nhờ môi trường đất khỏe, hạn chế sâu bệnh
Ngoài ra, do không đốt rơm rạ, nông dân còn tránh được nguy cơ vi phạm quy định về phát thải, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, và đặc biệt là tránh ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng không khí, vấn đề đang ngày càng được xã hội quan tâm.
Mô hình này đóng vai trò tích cực trong việc cải tạo đất, giảm phát thải khí nhà kính (Ảnh IT)Không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế, mô hình còn đóng vai trò tích cực trong việc cải tạo đất, giảm phát thải khí nhà kính - một trong những mục tiêu trọng tâm của Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp do Bộ Nông nghiệp & Môi trường đang triển khai tại ĐBSCL.
Theo ông Đoàn Ngọc Thân, Giám đốc Trung tâm Khuyếnnông và dịch vụ nông nghiệp Hậu Giang (TP Cần Thơ), việc sử dụng chế phẩm vi sinh xử lý rơm rạ giúp trả lại chất hữu cơ cho đất, tăng độ màu mỡ, giảm cỏ dại, giảm lượng phân bón và thuốc BVTV trong vụ sau. Đây là bước đi phù hợp với nông nghiệp tuần hoàn, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bài học rút ra từ mô hình không chỉ dừng ở lúa. Đại diện công ty cung cấp chế phẩm cho biết, họ đang nghiên cứu mở rộng ứng dụng sang các cây trồng khác như bắp, đậu nành, rau màu, nơi rơm rạ hoặc thân lá sau thu hoạch cũng có thể được phân hủy sinh học, trả lại dưỡng chất cho đất.
Tuy nhiên, theo ngành nông nghiệp nhận định, dù kết quả mô hình khá tích cực, song vẫn còn một số thách thức cần giải quyết trước khi triển khai đại trà do chi phí chế phẩm khi không còn hỗ trợ miễn phí. Cụ thể, giá thị trường của chế phẩm vi sinh hiện dao động từ vài trăm nghìn đến hơn 1 triệu đồng/ha tùy loại. Nông dân cần được hỗ trợ ban đầu hoặc có cơ chế tín dụng phù hợp để đầu tư.
Cùng với đó, việc sử dụng chế phẩm hiệu quả đòi hỏi người dân phải tuân thủ đúng liều lượng, cách ủ, thời điểm bón… Nếu không có sự hỗ trợ kỹ thuật sát sao, hiệu quả sẽ không ổn định. Một số vùng đất mặn, đất phèn hoặc điều kiện ẩm thấp quá mức có thể làm giảm hiệu quả hoạt động của vi sinh vật.
Việc tiếp tục nhân rộng, kết hợp với chính sách hỗ trợ, tập huấn kỹ thuật và liên kết thị trường (Ảnh IT)Nhiều chuyên gia cũng cho rằng muốn khẳng định giá trị bền vững, cần theo dõi 3-5 vụ liên tiếp để đánh giá tác động đến hệ sinh thái đất, năng suất cây trồng và sức khỏe đất lâu dài.
Chế phẩm vi sinh không phải là công nghệ cao siêu, nhưng trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam cần “xanh hóa” và tiết giảm chi phí, đây là một công cụ hữu ích, dễ áp dụng. Mô hình sử dụng chế phẩm vi sinh tại Cần Thơ là minh chứng cho thấy đổi mới tư duy sản xuất có thể bắt đầu từ những điều nhỏ nhất như một nắm rơm sau mùa gặt.
Việc tiếp tục nhân rộng, kết hợp với chính sách hỗ trợ, tập huấn kỹ thuật và liên kết thị trường sẽ là yếu tố quyết định để mô hình này thực sự phát triển bền vững, góp phần xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn và phát thải thấp tại Việt Nam.