Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Phóng sự

Chuyện cũ bên dòng sông Đồng Nai

Uông Thái Biểu - 10:37, 14/08/2020

Trên hành trình về vùng chiến địa xưa, từ đỉnh dốc Khỉ, tôi thỏa mắt ngắm một không gian khoáng đạt đang mở ra phía trước. Cái nắng màu mật ong dịu ngọt của bầu trời Cát Tiên (Lâm Đồng) trải dài như những dải thảm trên những cánh rừng cổ sinh tươi tốt đầu nguồn. Cánh đồng lúa giữa triền phù sa cổ vừa qua vụ gặt còn trơ gốc rạ. Những buôn làng, phố thị bình yên…

Một góc xã Đồng Nai Thượng hôm nay - một căn cứ kháng chiến năm xưa
Một góc xã Đồng Nai Thượng hôm nay - một căn cứ kháng chiến năm xưa

Mảnh đất tôi đang đứng giữa trưa nắng thanh bình là nơi đã được khắc đậm lên trang sử đất nước những dấu son chói lọi. Năm tháng cũ hằn in lên những cánh rừng, những ngọn núi, những buôn làng vô vàn câu chuyện về chiến công và lòng quả cảm. Ngước nhìn lên tượng đài sừng sững giữa trời xanh ở trung tâm cụm Di tích lịch sử Khu VI Anh hùng mà tâm hồn dậy lên biết bao cảm xúc. Cảnh sắc và không gian thiêng liêng như nhắc nhở rằng, đã 45 năm kể từ ngày đất nước thống nhất, nhưng màu máu đỏ, xương trắng của đồng chí, đồng bào đã ngã xuống trên những cánh rừng, những ngọn núi, những khe suối, làng buôn vẫn tươi nguyên trong cảm thức tri ân của thế hệ hôm nay…

Không ai có thể lãng quên, nơi một thời “rừng thiêng nước độc” này từng là chiến địa ác liệt trên hành trình các lực lượng ta vượt dòng sông Đồng Nai về với đồng bằng. Những bậc cao niên như Điểu K’Khen, Điểu K’Lộc còn thuộc tên, nhớ mặt các cán bộ, chiến sĩ Đoàn C200 cùng đồng bào các dân tộc anh em nếm mật nằm gai làm nhiệm vụ bảo vệ đường hành lang chiến lược, sản xuất lương thực, xây dựng cơ sở cách mạng, đánh địch mở rộng vùng giải phóng. Đây cũng là địa bàn đặt đại bản doanh của Khu ủy Khu VI thuộc Trung ương Cục miền Nam trong những năm dài đánh Mỹ.

Anh Nguyễn Văn Hòa, hướng dẫn viên của di tích, dẫn chúng tôi thăm quan mô hình các cơ quan khu bộ và nhà truyền thống. Những mái nhà lá giữa núi rừng bình yên, những hiện vật lặng lẽ giữa không gian tĩnh mịch mà như đang kể sống động những câu chuyện về một thời hào hùng. Rất nhiều trong số hiện vật mà khu di tích trưng bày là những vũ khí hiện đại được sản xuất ở Hoa Kỳ từ hơn nửa thế kỷ trước. Những khẩu pháo, súng bộ binh, bom, mìn các loại mà địch từng sử dụng nhằm hủy diệt chúng ta. Còn phía ta, trước khi quân chủ lực về, vũ khí diệt thù của các đội du kích người Mạ, Xtiêng chỉ là chông tre, bẫy đá, cây dao, chiếc nỏ đi rừng.

Anh Hòa kể, sau ngày khánh thành di tích, nhiều đồng chí nguyên là lãnh đạo các cơ quan Khu ủy cũ hoặc người thân của họ đã mang đến hiến tặng những kỷ vật đã được lưu giữ từ thời chiến tranh. Chúng tôi đứng lặng trước bức chân dung Bác Hồ kính yêu mà Ban Tổ chức Khu ủy treo trong phòng làm việc từ năm 1969. Bản Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã bợt chỉ, sờn gáy. Rồi chiếc ống nhòm của đồng chí Trần Lê, nguyên Bí thư Khu ủy sử dụng trong những lần thị sát chiến trường. Và rất nhiều, rất nhiều hiện vật như những chứng tích lặng lẽ kể về những năm tháng gian khổ, can trường.

Thả bước chân chầm chậm giữa khu vườn mát lành cây trái của một ngày sau 45 năm đất nước hòa bình, mà trí tưởng tượng của tôi như trở về với không gian thời binh lửa can qua. Ngắm núi, nhìn sông mà như còn hiển hiện bóng áo bà ba, chiếc gậy cầm tay lội suối băng rừng của các đồng chí lãnh đạo cao cấp như Võ Chí Công, Nguyễn Hữu Thọ, Trần Nam Trung… vượt qua đất này về Nam chiến đấu. Những đêm trường làng buôn rộn rã, tiếng đuốc nổ lép bép và giai điệu bài hát “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” của nhạc sĩ Xuân Hồng hòa cùng nhịp chày tay giã gạo rền vang kịp nuôi quân trong Chiến dịch Phước Long. Như còn nghe hiệu lệnh xuất quân của lãnh đạo Khu ủy và hình ảnh những đoàn quân len qua lau lách Bàu Sấu, Bàu Chim, vượt dòng sông Đồng Nai về với đồng bằng.

Sừng sững dáng hình những chiến binh Mạ, Xtiêng khố rách, lưng trần mà gan góc, can trường vượt rừng rậm, suối sâu đánh giặc, bảo vệ từng mái nhà, làng buôn, tấc đất quê hương…

Đứng trên đỉnh đèo Bờxa Luxiêng, ánh mắt tôi như được trải rộng cùng đại ngàn ngút mắt và thỏa sự mát lành với dòng sông lấp lóa dưới thung lũng xa. Không hiểu sao mà nơi này lại lôi cuốn bước chân tôi đến vậy. Đã bao lần khám phá mà vẫn như mới đến lần đầu. Những chuyện cũ, chuyện mới giữa rừng già bao giờ cũng mang lại cảm xúc thú vị. Xứ sở đầu nguồn mang tên Đồng Nai Thượng, quê hương ngàn đời của đồng bào Mạ, Xtiêng đến bây giờ vẫn nằm giữa vùng lõi Vườn quốc gia Cát Tiên. Đường nhựa lớn mở về đây từ nhiều năm trước. Các công trình điện, trường học, trạm y tế, chợ búa khang trang. Những vườn điều, rẫy cà phê, cao su và ruộng lúa mát mắt bên hồ thủy lợi. Chị Điểu Thị Prợt, Phó Chủ tịch UBND xã Đồng Nai Thượng nói, xã đã đạt chuẩn nông thôn mới, vừa tổ chức lễ đón nhận trong tháng 6 vừa rồi…

Lần này tôi về thì người quen cũ, lão ông Điểu Đoi - tổng già làng của tất cả 5 buôn: Bù Gia Rá, Bi Nao, Đạ Cọ, Bù Sa, Bê Đê - mới vừa tạ thế. Hình ảnh của ông, năm tháng cuộc đời ông là hiện hữu của bao mùa chinh chiến, nếm mật nằm gai, đói cơm lạt muối, không tiếc máu xương cho hòa bình về trên quê hương.

Lật cuốn Lịch sử xã Đồng Nai Thượng, danh sách thế hệ những cán bộ, du kích tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp từ thời già Điểu Đoi còn là người chỉ huy hầu hết đã về với đất mẹ thượng nguồn. Hơn 120 chiến binh quả cảm của 5 buôn trong xã từng được biên chế trong các đơn vị bộ đội trong thời chống đế quốc Mỹ nay người còn người mất, người tham gia công tác ở địa phương, người chí thú với cuốc cày, ruộng rẫy.

Tham gia không biết bao nhiêu trận đánh, mang trên mình nhiều di chứng chiến tranh, nhưng người phụ nữ nổi tiếng với những chiến công quả cảm tôi gặp hôm nay vẫn nở tươi nụ cười. Chị là Điểu Thị Lôi tên thường gọi Năm Lôi, người được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp 2 và đứng trong hàng ngũ của Đảng từ năm 18 tuổi. Chị cũng từng là Đại biểu Quốc hội khóa VI, ngay sau ngày nước nhà thống nhất.

Ký ức của người phụ nữ Xtiêng có tính cách hào sảng như mây núi gió rừng này không chỉ là chiến tích mà còn là những hy sinh, mất mát không thể nào bù đắp của đồng chí, đồng bào. “Trong thời kỳ triển khai Chiến lược chiến tranh cục bộ, địch điều lên đây hơn 40 tên lính Mỹ và lính đánh thuê, đặt chốt án ngữ ngay trên tuyến hành lang chiến lược. Một đêm, nắm được tin có cán bộ ta vào buôn móc nối với đồng bào, địch cho quân vây ráp với âm mưu thảm sát cả buôn làng. Trước tình hình hết sức hiểm nguy, cán bộ kháng chiến và đội du kích đã mai phục đánh chặn hậu cho bà con tản vào rừng lánh nạn. Tôi và bác Điểu Đoi chỉ có 2 khẩu súng trường nhưng vẫn thay nhau nhả đạn và luồn lắt léo trong rừng để dụ địch sa xuống hầm chông. Trận ấy, chúng tôi diệt được 10 tên!”, cựu Dũng sĩ diệt Mỹ Năm Lôi hào hứng kể về một trận đánh in sâu trong ký ức thời cầm súng của mình.

Sau trận đánh đầy mưu trí, dũng cảm này, du kích Điểu Thị Lôi được nữ tướng Nguyễn Thị Định gửi tặng chiếc khăn rằn và khẩu súng ngắn. Đó là nguồn động viên to lớn mà người nữ du kích Xtiêng khắc ghi vào tâm khảm suốt cả đời mình…

Tôi thả bộ bước chân xuống mép nước đầu nguồn dòng sông mẹ Đồng Nai và ngước nhìn đỉnh núi Bờxa Luxiêng. Núi vẫn đó, sông vẫn đây, ký ức về một thời oanh liệt vẫn hiện hữu trong quần thể di tích Khu VI anh hùng. Tôi mãi nhớ về xứ sở này với những con người của một thế hệ từng đi qua chiến tranh, họ không tiếc máu xương cho sự bình yên của làng buôn đại ngàn, lấy mục tiêu độc lập, tự do của Tổ quốc làm lẽ sống đời mình. Tôi cũng sẽ không quên lời chị Điểu Thị Lôi: “Chúng tôi từng cầm súng, vót chông giữ lấy buôn làng, còn những người như cô cháu gái Điểu Thị Prợt đây sẽ tiếp tục gánh vác trách nhiệm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, đồng bào ấm no, hạnh phúc”. 

Tin cùng chuyên mục
Cuộc “cách mạng” xóa nhà cột treo, kèo ná

Cuộc “cách mạng” xóa nhà cột treo, kèo ná

Sau 4 năm triển khai, nội dung hỗ trợ nhà ở tại Dự án 1 thuộc Chương trình MTQG 1719 thực sự đã trở thành cuộc “cách mạng” xóa nhà cột treo, kèo ná. Ở các tỉnh Bắc Trung bộ, hàng ngàn hộ đồng bào DTTS có hoàn cảnh khó khăn về nhà ở đã “an cư” trong những ngôi nhà mới đủ tiêu chuẩn “3 cứng”.