Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Kinh tế

Cộng sinh với rừng

Vân Khánh - 15:00, 18/11/2022

Lâm nghiệp trong xã hội hiện đại không chỉ là khai thác đơn giá trị, mà cần phát triển theo hướng bền vững, khai thác đa giá trị, cộng sinh với rừng.

Chăn nuôi dưới tán rừng tạo ra sản phẩm độc đáo
Chăn nuôi dưới tán rừng tạo ra sản phẩm độc đáo

Dưới những tán rừng

Nếu như trước đây, người DTTS sống dựa vào rừng, chủ yếu khai thác từ tự nhiên, thì giờ đây, nhiều người đã thích nghi với việc phát triển kinh tế rừng theo hướng làm du lịch sinh thái, trồng dược liệu dưới tán rừng…

Chia sẻ về câu chuyện của mình, anh Lềnh A Tráng, dân tộc Dao, ở huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh cho biết, trước đây, người dân bản anh chỉ biết dựa vào rừng như chặt cây làm nhà, săn bắn thú. Thế nhưng giờ đây, anh và mọi người đã biết tận dụng tán rừng trồng cây ba kích.

Lềnh A Tráng đã biết “đánh thức” chính mình và cây ba kích để làm giàu ngay trên chính mảnh đất quê hương. Cây ba kích đã đem về cho Lềnh A Tráng doanh thu hơn 1 tỷ đồng mỗi năm. Không riêng Lềnh A Tráng, giờ đây, nhiều người ở Quảng Ninh đã trồng cây ba kích để phát triển kinh tế ngay dưới tán rừng.

Việt Nam có khoảng 7.000 loài cây thuộc nhóm lâm sản ngoài gỗ (LSNG), trong đó có 216 loài tre, nứa; 56 loài song, mây; 5.000 loài cây dược liệu... hàng trăm loài làm thực phẩm. Trong đó, miền núi phía Bắc chiếm tới hơn 70% tổng số loài thực vật LSNG và hơn 90% các loài LSNG quý hiếm của cả nước. Thực tế, số loài cây LSNG ở Việt Nam cũng như ở các tỉnh Trung Du và miền núi phía Bắc cao hơn rất nhiều so với các loài LSNG đã thống kê do nhiều loài chưa được biết đến công dụng.

Theo thống kê, tổng diện tích một số nhóm, loài LSNG chủ yếu ở Việt Nam khoảng 2.696.821 ha, trong đó, diện tích LSNG phân bố tự nhiên trong rừng khoảng 1.922.634 ha, diện tích LSNG trồng khoảng 776.948 ha. Một số loài có diện tích trồng lớn và có sản lượng khai thác đạt giá trị cao như: Cây quế chiếm diện tích lớn nhất lên tới 137.000 ha, sản lượng khoảng 32.000 tấn vỏ khô/năm; cây hồi chiếm diện tích khoảng 60.500 ha, sản lượng đạt khoảng 24.200 tấn quả khô/năm; thảo quả chiếm diện tích diện tích 35.500 ha, sản lượng khoảng 5.325 tấn quả khô/năm; sa nhân chiếm diện tích 5.820 ha, sản lượng khoảng 582 tấn quả khô/năm; ba kích chiếm diện tích 1.295 ha, sản lượng khoảng 648 tấn củ tươi/năm.

Một số loài cây dược liệu khác như: Đẳng sâm, chè dây tập trung ở vùng núi cao các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang với diện tích khoảng 4.500 ha, hằng năm cung cấp lên tới 9.000 tấn sản phẩm. Tổng giá trị kinh tế từ LSNG chính ước đạt khoảng 3.361 tỷ đồng/năm.

Thị trường tiêu thụ các sản phẩm LSNG gồm nội địa và xuất khẩu. Theo số liệu thống kê của Trung tâm Nghiên cứu LSNG, giai đoạn từ năm 2016 - 2020, sản phẩm LSNG xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là sản phẩm mây tre, hồi, quế, thảo quả, sa nhân, nhựa thông... Các mặt hàng LSNG xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng nhanh như sản phẩm mây tre với giá trị xuất khẩu tăng bình quân khoảng 30%/năm trong giai đoạn 2016 - 2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 608 triệu USD năm 2020. Sản phẩm quế, hồi tăng bình quân khoảng 50%/năm, kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đạt 245 triệu USD; dược liệu khoảng 90 - 110 triệu USD/năm; tinh dầu và dầu nhựa khoảng 100 - 110 triệu USD/năm.

Tiềm năng, lợi thế về kinh tế - xã hội là rất lớn từ LSNG và giá trị cảnh quan, sinh thái của rừng, thế nhưng việc quản lý, khai thác, sử dụng vẫn còn không ít bất cập. Việc khai thác các giá trị đa dụng của rừng vẫn đang ở mức tiềm năng; chưa khai thác, sử dụng một cách tổng hợp đa chức năng, đa giá trị của hệ sinh thái rừng để tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng về kinh tế - xã hội cao hơn.

Trồng cây dược liệu dưới tán rừng đem lại thu nhập cao
Trồng cây dược liệu dưới tán rừng đem lại thu nhập cao

Nhiều tiềm năng chưa khai thác

Từ những câu chuyện thực tế cho thấy khai thác kinh tế rừng trong xã hội hiên đại cần cộng sinh với rừng. Hướng đi này vừa bảo vệ rừng, vừa tạo ra nguồn thu bền vững.

Theo Tổng cục Lâm nghiệp, tổng nguồn thu dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) giai đoạn 2011 - 2020 của các tỉnh Trung Du, miền núi phía Bắc là hơn 7.750 tỷ đồng (chiếm 48,4% tổng thu của cả nước). Bình quân mỗi năm thu khoảng 775 tỷ đồng; riêng năm 2020 thu được 1.239 tỷ đồng. Tiềm năng nguồn thu từ DVMTR tập trung chủ yếu tại các tỉnh khu vực Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Điện Biên), nơi có nhiều hệ thống thủy điện với công suất lớn như: Thủy điện Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình trên sông Đà. Riêng tỉnh Lai Châu có nguồn thu từ tiền DVMTR lớn nhất cả nước, với tổng số tiền DVMTR giai đoạn 2011 - 2020 là 2.647 tỷ đồng, chiếm 16,5% tổng thu giai đoạn của cả nước và 34% của các tỉnh phía Bắc.

Rừng khu vực Trung Du và miền núi phía Bắc, nếu triển khai tất cả các phương án giảm phát thải và đạt được lượng phát thải, đồng thời giữ mức phát thải của các diện tích còn lại ở mức bình thường thì dự kiến sẽ có khoảng 51,27 triệu tấn Carbon (CO2) có thể thương mại với giá dự kiến là 5USD/tấn CO2 (tính theo giá chuyển nhượng cho Quỹ Đối tác Carbon trong lâm nghiệp của khu vực Bắc Trung Bộ), tổng thu từ việc bán tín chỉ Carbon đạt khoảng 256 triệu USD giai đoạn 2021 - 2030, trung bình 25,6 triệu USD/năm (tương đương 588 tỷ đồng/năm).

Ngoài ra, rừng ở khu vực Trung Du và miền núi phía Bắc còn có tiềm năng rất lớn về du lịch sinh thái. Các khu: Vườn quốc gia Hoàng Liên có đỉnh Fansipan - nóc nhà của Đông Dương; Vườn quốc gia Bái Tử Long - Vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới với hàng nghìn hòn đảo cùng với đền, chùa, di tích lịch sử - văn hóa; Khu bảo tồn thiên nhiên Mường La, Tà Xùa, Sốp Cộp và Xuân Nha, tỉnh Sơn La với khí hậu ưu đãi, thời tiết mát mẻ quanh năm phù hợp phát triển các hoạt động du lịch sinh thái; Vườn quốc gia Du Già; rừng thông Yên Minh, Vườn quốc gia Ba Bể - khu Ramsar với hệ sinh thái rừng ngập nước...

Các tỉnh Trung Du và miền núi phía Bắc có tổng diện tích rừng tự nhiên gần 4 triệu ha (chiếm 38,6% tổng diện tích rừng tự nhiên toàn quốc), đa dạng về chủng loài LSNG, đặc biệt là các loài dược liệu dưới tán rừng; người dân có nhiều kinh nghiệm về nuôi trồng, chế biến LSNG. Do vậy, địa bàn nơi đây, đặc biệt là các tỉnh: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái, Phú Thọ, Quảng Ninh... có đầy đủ tiềm năng và lợi thế về nguồn LSNG, phát triển kinh tế dưới tán rừng.

Tin cùng chuyên mục
Nắng hạn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp ở Lâm Đồng

Nắng hạn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp ở Lâm Đồng

Theo thống kê từ ngành nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng, trong 3 tháng đầu năm 2024, lượng mưa trung bình trên địa bàn toàn tỉnh đạt thấp, chỉ bằng khoảng 20% so với cùng kỳ năm trước. Cùng với đó, số ngày nắng nóng tiếp tục tăng, biên độ nhiệt thay đổi giữa ngày và đêm lớn. Mực nước trên các sông suối đang giảm dần, nhất là các suối nhỏ đang giảm mạnh. Gây khó khăn cho tưới tiêu và sản xuất nông nghiệp.