Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Gương sáng

Hồi ức những đêm thức trắng may cờ Tổ quốc

Lê Hường - 11 giờ trước

Mặc bom đạn trút xuống, giữa rừng sâu bà Nguyễn Thị Ngọc Lan và đồng đội kiên cường vượt qua muôn vàn gian khó để may những lá cờ đỏ sao vàng. Từng đường kim mũi chỉ gửi gắm cả niềm tin, khát vọng hòa bình, độc lập.

Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan rất tự hào khi kể về nhiệm vụ thiêng liêng may cờ Tổ quốc và hành trình giữ sắc cờ trong bom đạn (Ảnh: Lê Hường)
Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan rất tự hào khi kể về nhiệm vụ thiêng liêng may cờ Tổ quốc và hành trình giữ sắc cờ trong bom đạn (Ảnh: Lê Hường)

Vượt lửa đạn, giữ sắc cờ giữa rừng sâu

Sinh ra tại tỉnh Bình Định, nay là tỉnh Gia Lai, tuổi thơ của bà Nguyễn Thị Ngọc Lan (SN 1942) trú phường Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk gắn liền với khói lửa chiến tranh và những câu chuyện về lòng yêu nước từ người thân trong gia đình.

Theo tiếng gọi cách mạng, năm 1966 bà Lan tự nguyện tham gia hoạt động cách mạng, rồi hành quân lên Tây Nguyên làm nhiệm vụ. Bà được phân công về tổ may mặc thuộc Ban Kinh tài của huyện H4 (nay là các xã Krông Búk, Krông Năng và phường Buôn Hồ và các xã lân cận, tỉnh Đắk Lắk).

Ban đầu, tổ may chủ yếu làm quần áo, túi đựng lương thực, ba-lô cho cán bộ, chiến sĩ. Cuối năm 1967, tổ may của bà Lan được giao thêm nhiệm vụ thiêng liêng là may cờ Tổ quốc.

Bà Lan kể: Ngày ấy, quân địch càn quét điên cuồng, để có tấm vải đỏ, vải vàng làm cờ bà và đồng đội phải đối mặt muôn vàn hiểm nguy. Chúng tôi ngầm liên hệ với công nhân trong Đồn điền Rosi để mua vải. Ban đêm, công nhân bí mật chôn giấu nguyên liệu dưới gốc cà phê, phủ lên lớp lá hoặc cỏ dại ngụy trang tránh bị địch phát hiện. Cùng với sự hỗ trợ của bộ đội, lợi dụng thời điểm không có lính mai phục, tổ may bí mật đến điểm tập kết để đưa vải về phục vụ may cờ. Mỗi chuyến đi lấy nguyên liệu là một lần đánh cược mạng sống. Trong một lần đi lấy vải, tôi trúng đạn bị thương ở chân.

Nhiều lần tổ may còn bị địch đánh đập, tịch thu máy may, thậm chí đốt cả lán trại… Nhưng suốt những năm tháng lửa đạn khốc liệt ấy, bà Lan và đồng đội chưa từng để mất tấm vải hay lá cờ nào. Từng cá cờ hoàn thành được cất giấu cẩn thận và đưa đến cơ sở an toàn. Với bà Lan cũng như đồng đội của bà, mỗi mũi kim đường chỉ không đơn thuần là công việc, mà còn gửi gắm niềm tin, nhịp đập trái tim hướng về ngày toàn thắng.

Chia sẻ với chúng tôi bà Lan bảo: Ban đầu, không ai trong tổ may biết kích thước chuẩn của lá cờ cho đến khi bà xin được chiếc huy hiệu in hình cờ Tổ quốc từ một chiến sĩ miền Bắc. Tôi tỉ mỉ đo đạc, tính toán tỉ lệ, thiết kế lá cờ dài 120cm, rộng 80cm, ngôi sao vàng có đường kính 40cm. Bản thiết kế ấy sau đó được cấp trên chấp thuận và trở thành khuôn mẫu để may hàng trăm lá cờ tung bay trong ngày giải phóng.

Đầu năm 1975, khi chiến sự bước vào giai đoạn quyết liệt, tổ may của bà Lan nhận lệnh may số lượng lớn cờ đỏ sao vàng. Ba người trong tổ làm việc không kể ngày đêm. Dưới ánh đèn dầu leo lét, tiếng máy may vẫn đều nhịp giữa núi rừng.

Đêm 10/3/1975, hay tin thị xã Buôn Ma Thuột được giải phóng qua chiếc radio, cả tổ may òa khóc trong niềm hạnh phúc. Hai ngày sau, huyện H4 lúc bấy giờ cũng chính thức giải phóng. Những lá cờ đỏ sao vàng mà bà và đồng đội dày công may suốt nhiều tháng trời đã tung bay trên các trụ sở hành chính.

Để có số lượng lớn cờ đỏ sao vàng, bà Lan đã đi vận động các nhà may tư nhân, hướng dẫn người dân cách may cờ Tổ quốc. Chỉ trong thời gian ngắn, sắc cờ đỏ đã rực rỡ khắp các ngả đường Tây Nguyên, chào đón ngày non sông sum họp.

Truyền lửa cho thế hệ mai sau

Nửa thế kỷ qua bà Lan vẫn giữ gìn những kỷ vật thời chiến như báu vật (Ảnh: Lê Hường)
Nửa thế kỷ qua bà Lan vẫn giữ gìn những kỷ vật thời chiến như báu vật (Ảnh: Lê Hường)

Sau ngày đất nước thống nhất, bà Lan tiếp tục cống hiến trong ngành thương nghiệp cho đến khi nghỉ hưu. Với những cống hiến trong cả thời chiến lẫn thời bình, bà Lan đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều huân, huy chương cao quý.

Nay đã tuổi ngoài 80, song bà Lan vẫn minh mẫn, hoạt bát, hàng ngày duy trì thói quen nghe đài, đọc báo, cập nhật thông tin ở địa phương nói riêng và đất nước nói chung, bà rất vui mừng vì sự phát triển của quê hương, đất nước. 

Mỗi dịp kỷ niệm ngày giải phóng, bà lại kể cho con cháu nghe những câu chuyện về những đêm trắng làm nhiệm vụ thiêng liêng may cờ Tổ quốc, về hành trình giữ sắc cờ trong bom đạn. Với bà, đó không chỉ là ký ức riêng mà là lời nhắc nhở về sự hy sinh của cha ông, là niềm tự hào lớn nhất trong đời khi những lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên bầu trời độc lập.

Những kỷ vật thời chiến bà vẫn luôn giữ bên mình như: chiếc võng dù, chiếc bình tông, và đặc biệt là lá cờ do chính tay bà may vào tháng 3/1975. Năm 2020, bà trao tặng lá cờ ấy cho Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, mong thế hệ sau được tận mắt nhìn thấy chứng tích của một thời hoa lửa.

Tin cùng chuyên mục
Người đàn ông Sán Dìu "trả nợ" ân tình nơi vùng cao Đà Nẵng

Người đàn ông Sán Dìu "trả nợ" ân tình nơi vùng cao Đà Nẵng

“Mảnh đất này đã cho tôi nhiều thứ, nên tôi như mang một món nợ ân tình với nơi đây. Ngày xưa mình cũng từng khó khăn, cũng từng được giúp đỡ. Bây giờ có điều kiện hơn, tôi chỉ mong được góp phần nhỏ bé để sẻ chia với bà con”, ông Lý Minh Tám (65 tuổi, dân tộc Sán Dìu, ngụ tại xã Khâm Đức, TP. Đà Nẵng) - một tấm gương sáng trong các phong trào hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào vùng cao Đà Nẵng vượt khó vươn lên bộc bạch.