Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Kinh tế

Lời giải nào cho sinh kế ngư dân?

PV - 10:02, 12/04/2019

Bao đời nay, bám biển mưu sinh vốn là nghề truyền thống của ngư dân các làng chài ven biển khu vực duyên hải Nam Trung bộ. Tuy nhiên, nghề đi biển ngày càng khó khăn, vất vả. Thực tế này, đòi hỏi chính quyền và ngư dân các làng chài vừa phải đẩy mạnh vươn khơi bám biển, vừa phải có sự linh hoạt trong chuyển đổi ngành nghề để tìm hướng phát triển kinh tế bền vững.

Bài 1: Quẩn quanh ven bờ

Hằn in trong ý nghĩ của hàng vạn ngư dân Nam Trung bộ, bao đời nay vẫn xem biển là nhà bởi đó là nơi tạo ra nguồn sống, nuôi dưỡng khát vọng tương lai. Nhưng rồi, quẩn quanh với cách khai thác tận diệt, nguồn lợi hải sản gần bờ ngày càng cạn kiệt. Trong khi đó, vươn khơi lại là câu chuyện không hề dễ dàng… Vậy nên, lời giải nào cho sinh kế của ngư dân vẫn luôn là điều trăn trở lâu nay.

Dầu tăng, nhân công tăng, nhiều tàu công suất lớn phải nằm bờ. Dầu tăng, nhân công tăng, nhiều tàu công suất lớn phải nằm bờ.

Tận diệt ven bờ

Hưởng “đặc ân” từ đầm Thủy Triều (Cam Hải Đông, Cam Lâm, Khánh Hòa) suốt hơn nửa thế kỷ nay nhưng cuộc sống của hàng trăm hộ ngư dân bám vào cửa biển vẫn nằm gọn trong vòng luẩn quẩn. Nhìn những chiếc ghe và thuyền nhỏ chất đầy lờ dây, kích điện, lưới mắt nhỏ…ì ạch rẽ sóng trên đầm Thủy Triều, ngư dân Lê Văn Hậu thở dài, lo lắng: Dõi theo thì cứ thấy cá, tôm từ nhỏ đến to hất lên thuyền liên tục thế nhưng chẳng được bao nhiêu vì toàn bán theo mớ. Muốn có cá ngừ đại dương lẫn các nguồn hải sản lớn thì phải giỏi nghề và liều nữa. Vươn khơi cũng như “đánh bạc” với đại dương, nếu không tính toán kỹ, lỗ thê thảm như chơi.

Có mặt ở đầm Thủy Triều lẫn Vịnh Cam Ranh trong nhiều ngày của tháng Ba, bất kể sớm-tối những chiếc ghe nhỏ chất đầy lờ dây nhả khói mù mịt, đua nhau đánh bắt. Trần Văn T, một người đi biển dày dạn kinh nghiệm ở đầm Thủy Triều, thổ lộ: Trước cũng có một số người vay tiền đóng tàu công suất lớn nhưng sau đó lại chuyển nhượng rồi quay sang đánh bắt kiểu tận diệt. Trung bình chỉ cần bỏ ra 2 triệu đồng tiền lờ dây và 8 triệu đồng tiền đóng ghe là có thể đánh bắt mấy năm. 5 năm trước, mỗi ngày đánh được khoảng 2 triệu đồng mỗi ghe nhưng nay chỉ được 500-1 triệu đồng. Có người biết tận diệt thế, tương lai sẽ cạn hải sản nhưng vì cuộc sống trước mắt vẫn cứ phải hoạt động liên tục. Lúc cao điểm có hàng trăm phương tiện đánh bắt tận diệt ở Cam Ranh và đầm Thủy Triều.

Tại nhiều vùng biển khác ở Nam Trung bộ như: Bình Chánh (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) hay ven đảo Lý Sơn tình trạng đánh bắt tận diệt vẫn thường xuyên diễn ra dẫu đã được tuyên truyền, cấm. Ông Nguyễn Tùng vừa từ dã nghề đánh bắt bằng giã cào cho biết: Muốn dừng hẳn thì khó. Người ta cứ canh me, khi nào có đội tuần tra thì dừng, không thì đánh tiếp. Đánh bắt kiểu này, chả con nào thoát được. Có người còn đặt làm các loại lờ dây, lưới vây mắt thật nhỏ, có khi con ốc hương cũng không lọt.

Ngược ra phía Phá Tam Giang-Cầu Hai (Thừa Thiên-Huế) nơi được ví như cái túi hải sản khổng lồ, có thể nuôi sống cho trên 10 ngàn ngư dân. Thế nhưng, chính kiểu đánh bắt tận diệt, hải sản đã cạn dần. Làm nghề chài lưới nhiều năm trên phá Tam Giang, ông Võ Văn Phú buồn rầu, lo lắng: Không chỉ người dân thiếu ý thức mà “thủy tặc” nơi khác cũng về quần thảo. Giờ đi biển một ngày cũng chỉ đủ ăn cho gia đình chứ không dư giả được. Tại các tỉnh Phú Yên, Bình Thuận, người dân cũng lo lắng về tình trạng đánh bắt kiểu tận diệt này.

Đánh bắt tận diệt bằng kích và lờ dây diễn ra công khai ở đầm Thủy Triều. Đánh bắt tận diệt bằng kích và lờ dây diễn ra công khai ở đầm Thủy Triều.

Vươn khơi không dễ

Hiểu rõ tác hại của kiểu đánh bắt tận diệt, nhiều ngư dân đầu tư tàu công suất lớn, giá trị hàng chục tỷ đồng để vươn ra các ngư trường. Vậy nhưng một thực tế đang diễn ra là… thiếu bạn đi biển trầm trọng.

Tại cảng Hòn Rớ (TP. Nha Trang, Khánh Hòa), nhìn chiếc tàu trên 880CV của mình, ông Lê Văn Hội trăn trở: Mình đã mấy đời đánh bắt xa bờ rồi. Trước đây cứ đi 20-25 ngày là thu về mấy trăm triệu tiền bán hải sản nhưng nay thì giảm mất một nửa. Đặc biệt, từ cuối năm 2018 đến giờ vẫn chưa tìm đủ bạn đi biển, tàu vẫn phải nằm đó. Nhiều bạn tàu vì bất đắc dĩ đành chuyển sang đánh bắt tận diệt cho nhanh có thu nhập. Trung bình, vươn khơi xa, tổng chi phí tiền dầu, nhân công, nhu yếu phẩm mất khoảng 170-200 triệu đồng. Vài năm trước, tiền công, tiền dầu đều rẻ nhưng giờ đắt quá.

Để người dân không chán nản, Chi cục thủy sản Khánh Hòa đã triển khai chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi trồng hải sản. Bên cạnh đó còn triển khai các chuỗi liên kết để tiêu thụ hải sản. Tuy nhiên cũng chỉ đáp ứng được một lượng nhỏ tàu thuyền đánh bắt xa bờ trong khi toàn tỉnh Khánh Hòa có trên 1.300 tàu công suất lớn.

Tương tự, tại hàng chục cảng cá khác ở Nam Trung bộ cũng chịu cảnh ngộ, tàu tiền tỷ nằm phơi sương, phơi gió vì sợ không cáng đáng nổi các chi phí, không tìm đủ bạn đồng hành trong những chuyến vươn khơi xa.

Tại Gành Cả (ở xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) hai năm về trước, lúc nào cũng tấp nập cảnh mua bán và hơn 60 tàu công suất lớn vươn khơi, cập cảng liên tục. Nguồn hải sản xuất bán đi khắp nơi ở khu vực miền Trung. Thế nhưng, những ngày đầu năm 2019 này, một nửa số tàu đã “đắp chiếu”. Ông Nguyễn Văn Tàu, chủ tàu QNg 95239 ở Bình Sơn cho biết: Một tàu lớn ra biển cần trên 20 người, phải đều là những ngư dân thành thạo các kỹ năng đánh bắt và xử lý tình huống trên biển. Mỗi ngày tiền công phải trả hàng triệu cho mỗi người nhưng tìm người vẫn khó.

Theo UBND xã Bình Châu, để gỡ khó trước mắt cho các chủ tàu, địa phương vẫn thường xuyên tuyên truyền các lợi ích về lâu dài của việc vươn khơi bám biển, bám ngư trường, tuy nhiên tác dụng vẫn không như mong muốn...

HÀ VĂN ĐẠO

Tin cùng chuyên mục
Đông Giang (Quảng Nam): Xuất hiện nhiều mô hình sinh kế hiệu quả

Đông Giang (Quảng Nam): Xuất hiện nhiều mô hình sinh kế hiệu quả

Thời gian qua, huyện miền núi Đông Giang (Quảng Nam) đã triển khai nhiều mô hình sinh kế mới như nuôi hưu lấy nhung, chuỗi liên kết sản xuất chè, chuỗi sản xuất về chăn nuôi heo, bò… Những mô hình này không chỉ cải thiện sinh kế cho người dân, mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế -xã hội của địa phương.