Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Khoa học - Công nghệ

Phát triển vùng nguyên liệu gỗ lớn: Nền tảng nâng tầm lâm sản Việt

Hoàng Minh - 4 giờ trước

Trong bối cảnh hiện nay, việc phát triển vùng nguyên liệu gỗ lớn với chất lượng cao, được chứng nhận bền vững (FSC/VFCS), đã trở thành đòi hỏi cấp thiết. Không chỉ nhằm gia tăng năng suất, chất lượng rừng trồng, các mô hình vùng nguyên liệu còn mở ra cơ hội phát triển ngành lâm nghiệp theo hướng hiện đại, tuần hoàn và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Phát triển bền vùng từ vùng trồng gỗ lớn (Ảnh IT)
Phát triển bền vùng từ vùng trồng gỗ lớn (Ảnh IT)

Tại các tỉnh Bắc Trung Bộ như Nghệ An, Hà Tĩnh, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã triển khai hàng loạt dự án nhằm xây dựng các mô hình trồng rừng gỗ lớn bằng giống Keo lai tam bội chất lượng cao. Đây là loại cây giống được nuôi cấy mô, có khả năng sinh trưởng vượt trội, kháng sâu bệnh tốt và phù hợp với đất rừng sản xuất của khu vực.

Kết quả bước đầu ghi nhận, tỷ lệ sống sau trồng đạt trên 95%, sinh trưởng đồng đều và năng suất ước đạt 25-30 m³/ha/năm, cao hơn 20-30% so với giống truyền thống. Quan trọng hơn, các mô hình này còn gắn với chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ, góp phần hình thành vùng nguyên liệu ổn định phục vụ chế biến sâu và xuất khẩu.

Không chỉ dừng lại ở trồng rừng, một số địa phương như Quảng Trị, Thành phố Huế còn đầu tư phát triển hệ thống vườn ươm công nghệ cao với công suất hàng trăm nghìn cây giống mỗi năm. Việc chủ động nguồn giống chất lượng giúp đảm bảo tính đồng bộ trong phát triển vùng nguyên liệu, đồng thời giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế cho người dân.

Phát triển các vùng nguyên liệu gỗ lớn tập trung và đồng bộ đang là yêu cầu tất yếu trên cả nước (Ảnh IT)
Phát triển các vùng nguyên liệu gỗ lớn tập trung và đồng bộ đang là yêu cầu tất yếu trên cả nước (Ảnh IT)

Việt Nam hiện có khoảng 3,8 triệu ha rừng trồng, trong đó phần lớn là rừng sản xuất gỗ nhỏ phục vụ dăm gỗ, giá trị thấp. Chỉ khoảng 5% diện tích rừng được chứng nhận FSC - điều kiện tiên quyết để thâm nhập thị trường cao cấp. Những mô hình như ở Bắc Trung Bộ cho thấy sự chuyển dịch rõ rệt trong tư duy lâm nghiệp: từ sản xuất đơn lẻ, manh mún sang mô hình liên kết, tuần hoàn, chú trọng giá trị gia tăng và chứng nhận bền vững.

Sự đồng bộ từ giống, kỹ thuật thâm canh, chu kỳ khai thác dài hơn (8-10 năm thay vì 4-5 năm), cho phép thu hoạch gỗ lớn, loại nguyên liệu được ưa chuộng trong ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu. Đồng thời, việc gắn với cấp chứng chỉ FSC giúp tăng tính minh bạch và khả năng truy xuất nguồn gốc, yêu cầu bắt buộc trong bối cảnh quốc tế siết chặt các quy định về khai thác rừng.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã đi trước Việt Nam trong phát triển vùng nguyên liệu gỗ lớn. Ví dụ, Chile và Brazil đã xây dựng những khu rừng trồng quy mô lớn, áp dụng công nghệ cao từ giống, tưới tiêu, đến thu hoạch cơ giới. Nhờ đó, năng suất rừng đạt trên 40-50 m³/ha/năm, gấp đôi mức trung bình tại Việt Nam hiện nay.

Một điểm đáng học hỏi, là sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp trong xây dựng vùng nguyên liệu thông qua hình thức liên kết với nông dân hoặc sở hữu trang trại rừng riêng. Mô hình “hợp tác công - tư” (PPP) trong lâm nghiệp cũng được nhiều nước áp dụng, nhằm huy động nguồn lực xã hội vào phát triển rừng bền vững.

Trồng rừng lớn, định hướng phát triển bền vững của người dân (Ảnh IT)
Trồng rừng lớn, định hướng phát triển bền vững của người dân (Ảnh IT)

So với quốc tế, Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi. Tuy nhiên, các tín hiệu tích cực từ các mô hình thí điểm cho thấy, tiềm năng lớn nếu có chiến lược đồng bộ từ trung ương đến địa phương, cùng với sự tham gia thực chất của khu vực tư nhân.

Để nhân rộng các mô hình vùng nguyên liệu gỗ lớn, cần có các chính sách hỗ trợ dài hạn về tín dụng, đất đai, giống cây trồng và chuyển giao kỹ thuật cho người trồng rừng. Đặc biệt, Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp chế biến gỗ đầu tư trở lại cho vùng nguyên liệu không chỉ dừng ở khâu thu mua, mà tham gia sâu vào liên kết sản xuất.

Ngoài ra, việc đẩy mạnh cấp chứng chỉ rừng bền vững (FSC/VFCS), số hóa dữ liệu rừng, và minh bạch hóa chuỗi cung ứng cũng là các bước đi cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành gỗ Việt Nam trên thị trường toàn cầu.

Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, hiệu quả từ các mô hình chuyển giao, Trung tâm lấy hạt nhân là các vườn ươm, từ đó gắn kết với lực lượng khuyến nông cộng đồng để phát triển các quy trình công nghệ này.

Định hướng của Trung tâm khi phát triển, là mong muốn tất cả các vùng nguyên liệu của chúng ta đều đạt các chứng nhận, chứng chỉ quốc tế như chứng chỉ FSC. Từ đó, khi Việt Nam tham gia vào các thị trường lớn hơn, đặc biệt là các thị trường EU, Mỹ, đây là những yêu cầu bắt buộc của các thị trường này. 

"Đây cũng là những yêu cầu khi chúng ta mong muốn tiếp cận sản xuất rừng gỗ lớn và tiếp cận thị trường của các nước tiên tiến”, ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia khẳng định.

Phát triển vùng nguyên liệu gỗ lớn không đơn thuần là mở rộng diện tích rừng trồng, mà là một chiến lược tổng thể nhằm chuyển đổi ngành lâm nghiệp từ sản xuất thô sang chế biến tinh, từ khai thác ngắn hạn sang phát triển bền vững. Nếu thực hiện hiệu quả, đây sẽ là chìa khóa để Việt Nam không chỉ giữ vững vị thế xuất khẩu gỗ hàng đầu thế giới, mà còn trở thành quốc gia dẫn đầu về lâm nghiệp bền vững ở khu vực.