Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên: Ngày càng thu hẹp

PV - 14:43, 25/01/2018

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được tổ chức UNESCO công nhận là “Kiệt tác Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại” năm 2005 và trở thành “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” năm 2009.

Tiếng chiêng-lời thiêng

Tháng Ba -mùa con ong đi lấy mật, mùa lễ hội của Tây Nguyên. Làng Văn hóa -Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) theo đó cũng trở nên rộn rã, trầm hùng bởi âm hưởng cồng chiêng vang lên gọi mùa lễ hội.

Già làng Ay Lê, dân tộc Ê-đê đến từ buôn Akô Dhông, TP. Buôn Ma Thuột (tỉnh Đăk Lăk) cho biết: Mỗi khi tiếng chiêng vang lên cũng là lúc con người đã khuấy động vào thế giới của các thần (Yang) và linh hồn tổ tiên (Atâu) của dân tộc mình.

Tiếng cồng chiêng của mỗi dân tộc, thậm chí mỗi nhóm địa phương, mỗi buôn làng có ngôn ngữ riêng. Nghe âm thanh vang lên từ loại cồng chiêng nào, bài chiêng nào là dân làng, các cộng đồng láng giềng đều hiểu có việc gì đang diễn ra ở nơi tiếng chiêng đang vang lên.

Tiếng chiêng chỉ thực sự có ý nghĩa khi được vang lên trong không gian đặc trưng của nó. Tiếng chiêng chỉ thực sự có ý nghĩa khi được vang lên trong không gian đặc trưng của nó.

 

Trong văn hóa truyền thống của đồng bào Tây Nguyên, cồng chiêng có môi trường tâm linh của nó. Tiếng chiêng chỉ vang lên khi có một nghi lễ cụ thể. Nghi lễ ấy gắn với quá trình sinh- tử của một con người (ở gia đình), gieo- thu của một mùa vụ (ở nhà kho, trên nương rẫy), với bến nước (khi cúng bến nước), với nhà rông (khi đón năm mới, mừng chiến thắng, tạ ơn…), với nhà mồ (tang ma, bỏ mả)…

Trong môi trường ấy, cồng chiêng là một linh khí, âm thanh của cồng chiêng như khói hương trong nghi lễ giúp con người giao tiếp với thần linh và thế giới tổ tiên.

Nguy cơ mai một

Do tính chất thiêng liêng đặc thù của “ngôn ngữ” cồng chiêng Tây Nguyên nên di sản văn hóa này chỉ thực sự “tỏa sáng” khi đặt trong không gian, môi trường tâm linh truyền thống thực sự của nó. Tuy nhiên, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đang ngày càng bị thu hẹp và mai một dần.

Tiến sỹ Nguyễn Thị Kim Vân, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Gia Lai cho rằng, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ cây lúa rẫy sang các loại cây công nghiệp như cà phê, cao su, ca cao… đã dẫn đến sự suy giảm những sinh hoạt cồng chiêng gắn với hoạt động sản xuất truyền thống. Không gian buôn làng, khu nhà mồ, bến nước..., là không gian văn hóa cồng chiêng đã bị thu hẹp hoặc thay thế bằng nhà xây kiên cố, giếng khoan. Đời sống và sinh hoạt hiện đại làm thay đổi nhận thức về tính thiêng và tính cộng đồng của văn hóa cồng chiêng. Nhiều hộ gia đình đã bán đi những bộ chiêng, ché, kpan quý.

Bên cạnh đó, tình trạng di cư ồ ạt các lớp cư dân mới vào Tây Nguyên làm thu hẹp dần các làng Bahnar, Jrai, Ê-đê cổ truyền. Những điều kiện “cần” trong một không gian để văn hóa cồng chiêng “sống” đúng nghĩa như: canh tác lúa rẫy, bến nước, nhà rông, nhà mồ... cứ khuyết dần.

Già làng dân tộc Mnông diễn tấu chiêng tại Làng Văn hóa- Du lịch các dân tộc Việt Nam. Già làng dân tộc Mnông diễn tấu chiêng tại Làng Văn hóa- Du lịch các dân tộc Việt Nam.

 

Phong trào cải tiến cồng chiêng làm cho cồng chiêng được sử dụng phổ biến hơn, người ta có thể dùng chiêng cải tiến để đánh những ca khúc hiện đại, tiếng chiêng có thể vang lên ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào… nhưng nó đã không còn là âm thanh được phát đi từ môi trường linh thiêng tồn tại đã bao đời.

Đẩy mạnh các giải pháp bảo tồn

Dưới sự chỉ đạo của Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch, khoảng 10 năm trở lại đây, các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Đăk Nông đã phối hợp với Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam xây dựng các đề án, dự án bảo tồn Không gian văn hóa cồng chiêng của địa phương mình. Các đề án, dự án tập trung vào việc khôi phục các lễ hội của dân tộc, tổ chức truyền dạy cồng chiêng, thành lập các Câu lạc bộ, đội văn hóa các cấp, cũng như khảo sát, kiểm kê và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa cồng chiêng trên địa bàn.

Theo đó, các kỳ Festival quốc tế Cồng chiêng, Lễ hội Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở cấp khu vực và cấp tỉnh đã được tổ chức định kỳ hàng năm tại các tỉnh Tây Nguyên. Tỉnh Đăk Lăk cũng được Bộ VHTT&DL chỉ đạo xây dựng Đề án tổng thể Bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng toàn vùng Tây Nguyên để trình Bộ phê duyệt trong thời gian tới.

Ngoài ra, hàng năm, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cũng đã tổ chức nhiều chương trình, hoạt động nhằm trình diễn, giới thiệu các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của đồng bào tại Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam.

Đây là những giải pháp cấp thiết trước mắt để bảo tồn Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trước nguy cơ mai một. Tuy nhiên, về lâu dài, công tác bảo tồn “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” này còn gặp không ít khó khăn, thách thức khi xu hướng làng nông thôn mới với những ngôi nhà bê tông đang “lấn lướt” làng cổ, nhà cổ.

Những khu nhà mồ, bến nước, rẫy lúa… đang mất dần. Lễ hội truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên đang được các địa phương tái hiện, phục dựng lại, tuy nhiên vẫn nặng về sân khấu hóa và mang tính biểu trưng chứ không được nguyên bản như cổ truyền.

Do đó, làm thế nào để bảo tồn nguyên vẹn “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” vẫn là một bài toán khó đối với các nhà quản lý văn hóa ở cả Trung ương lẫn địa phương.

NGỌC ÁNH

Tin cùng chuyên mục
Hồn dân tộc nhìn từ cổ vật: Khi người trẻ đam mê cổ ngoạn (Bài 1)

Hồn dân tộc nhìn từ cổ vật: Khi người trẻ đam mê cổ ngoạn (Bài 1)

Đam mê sưu tầm, lưu giữ các cổ vật văn hóa, những người trẻ với tư duy mới không giữ khư khư những bộ sưu tập cổ vật quý giá trong cánh cửa gia đình mình mà họ đã mang đi trưng bày, giới thiệu và chia sẻ với đông đảo công chúng để mọi người hiểu hơn, biết trân trọng hơn giá trị di sản của cha ông để lại.