Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Chống diễn biến hòa bình

Không thể phủ nhận vị trí, vai trò, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam

PV - 08:05, 16/02/2024

Những ngày qua, trên nhiều kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng của tổ chức phản động lưu vong và trang mạng của đối tượng chống đối tiếp tục tung ra các bài viết, luận điệu sai trái, xuyên tạc về vai trò, vị trí, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Những luận điệu xuyên tạc về vị trí, vai trò của Đảng

Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động tìm mọi cách phủ nhận, bác bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và coi đây là khâu đột phá, là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để xóa bỏ thành quả cách mạng, xóa bỏ con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam, hướng lái Việt Nam phát triển đi theo quỹ đạo TBCN. Các đối tượng xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi Đảng ta phải thoái lui, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”; cho rằng Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nền tảng tư tưởng là sự lỗi thời, lạc hậu; từ đó gây tâm lý hoài nghi, dao động, giảm sút niềm tin trong nhân dân, đặc biệt là niềm tin vào vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây là những quan điểm, luận điểm hết sức sai lầm, phi khoa học, không có cơ sở cả về lý luận và thực tiễn, chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong phân tích, đánh giá; nhiều nhận xét là chủ quan, vô căn cứ.

Trên nhiều kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng của tổ chức phản động lưu vong và trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối còn cho rằng, việc Đảng kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là siêu hình, trái quy luật và xu thế phát triển của thế giới. Lại có ý kiến đưa ra lý lẽ lập lờ rằng, nội hàm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc mà Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là mông lung, khó khả thi vì bảo vệ Tổ quốc chỉ là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia chứ không phải là bảo vệ một đảng phái, một chế độ chính trị nào! Có ý kiến quy kết “chế độ độc đảng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khiến Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu”! Các đối tượng tiếp tục dẫn chứng sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu để biện minh cho quan điểm của mình…

Không dừng lại ở việc xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng, các thế lực thù địch, phản động còn ra sức lợi dụng những tiêu cực nảy sinh trong đời sống xã hội, nhất là tình trạng tham nhũng để gây nhiễu dư luận, xuyên tạc bản chất của chế độ; coi những tiêu cực đó có nguyên nhân do sự lãnh đạo của Đảng. Nguy hiểm hơn, các đối tượng đưa ra luận điệu “tham nhũng là hệ quả tất yếu của chế độ độc đảng”; “việc phòng, chống tham nhũng thực chất là đấu đá trong nội bộ Đảng”... Từ đó, các thế lực này lớn tiếng hô hào đòi thay đổi chế độ, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”!

Các đối tượng xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ra sức tuyên truyền cho luận điệu “chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời”; “chủ nghĩa Mác - Lênin là lý thuyết suông về CNXH không tưởng, không có thực”... Đây là luận điệu hết sức nguy hiểm bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Mục đích của chúng là phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lịch sử của dân tộc, lấy cớ cổ suý cho ý đồ xây dựng, hình thành những đảng phái chính trị đối lập, chống phá từ bên trong.

Lịch sử ghi nhận, trước khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta bị áp bức dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tuy dấy lên mạnh mẽ và theo nhiều khuynh hướng tư tưởng, con đường khác nhau nhưng đều không thành công do thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một học thuyết khoa học tiên tiến soi đường. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả vận động, phát triển chín muồi của các điều kiện khách quan và sự chuẩn bị chu đáo, hiệu quả của các nhân tố chủ quan. Được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành chính Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được nhân dân thừa nhận, tin tưởng, yêu mến, suy tôn, ủy thác và ra sức xây dựng, bảo vệ.

Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định trong dòng chảy của lịch sử dân tộc

Trong dòng chảy lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc từ khi ra đời tới nay là lịch sử dựng nước và giữ nước. Dựng nước luôn luôn gắn chặt với giữ nước, trong đó dựng nước là yếu tố cơ bản. Phải xây dựng được đất nước hùng mạnh về mọi mặt mới có điều kiện, khả năng chiến thắng các thế lực thù địch và phải giữ được nước mới có điều kiện để xây dựng đất nước. Chính nhờ kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa của triết học và văn hóa phương Đông và phương Tây mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước (1911) và đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (1920). Con đường cứu nước đúng đắn đã được xác định, đó là con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai cấp và dân tộc giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam là do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định. Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng và Bác Hồ đã kịp thời xác định đúng đắn, sáng tạo đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Qua 33 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh năm 1991) và 38 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII của Đảng (tháng 2/2021) đã đánh giá: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay”. Đất nước bước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Sau gần 40 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trở thành quốc gia đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực Đông Nam Á. Quy mô GDP đã tăng hơn 100 lần, từ con số 4 tỷ USD lên 406 tỷ USD (năm 2022)". Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP năm 2023 của cả nước ước tính tăng 5,05% so với năm trước, đưa quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD; GDP bình quân đầu người ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Như vậy đến cuối năm 2023, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã đạt mốc 100 triệu đồng/người/năm.

Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó có 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Việt Nam là tâm điểm của nhiều mạng lưới liên kết kinh tế năng động với hơn 230 đối tác thương mại, 60 hiệp định thương mại tự do sâu rộng với nhiều phương diện hợp tác. Qua đó sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Thực tiễn phong phú và sinh động của cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng đến nay đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Mặt khác, thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân.

Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và cũng chính trong quá trình đó, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà hôm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn và phát huy. Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Với những thành tựu nêu trên tiếp tục khẳng định rằng, dù thời cuộc có nhiều biến động, thế giới có nhiều đổi thay nhưng vai trò Đảng Cộng sản Việt Nam trong dòng chảy lịch sử của dân tộc đã, đang và tiếp tục là lực lượng chính trị duy nhất có đủ vị thế, trí tuệ, năng lực, uy tín để lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới, bảo vệ độc lập, chủ quyền và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN. Mọi sự xuyên tạc về vai trò, vị trí, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam đều không có giá trị và bị thực tiễn bác bỏ.

Tin cùng chuyên mục
Kon Tum: Dân “khổ” vì thủy điện

Kon Tum: Dân “khổ” vì thủy điện

Thời gian qua, người dân sinh sống, sản xuất quanh khu vực lòng hồ thủy điện Đăk Psi 6, xã Đăk Long, huyện Đăk Hà và lòng hồ thủy điện Plei Kần, thị trấn Plei Kần, huyện Ngọc Hồi (Kon Tum) liên tiếp chịu cảnh nước dâng ngập hoa màu, đất đai sạt lở. Mặc dù người dân đã nhiều lần kiến nghị đến các cấp chính quyền, nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Việc chậm trễ này đã làm ảnh hưởng đến việc sản xuất và đời sống của người dân.