Bà Linh Nga Niê Kdam cùng với bà con buôn Tăng Ju thực hiện dự án vì cộng đồng cho buônỞ tuổi xưa nay hiếm, nữ sĩ Linh Nga Niê Kdam vẫn giữ nét đẹp đầy nữ tính của người con gái Hà Nội. Nhưng trái tim và sự nghiệp của bà lại neo chặt với đất đỏ bazan, nơi con người, văn hóa đã trở thành máu thịt, niềm vui, nỗi đau và cả trách nhiệm mà bà tự nguyện gánh vác. Có lẽ số phận đã sắp xếp để Linh Nga Niê Kdam trở thành “người giữ lửa” văn hóa. Năm lên ba tuổi, bà được Bác Hồ bế trong vòng tay. Ký ức thiêng liêng ấy đã thắp lên trong bà một niềm tin lớn. Niềm tin ấy càng được hun đúc từ người cha - bác sĩ, Nhà giáo Nhân dân Y Ngông Niê Kdam, đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa IX, người Ê Đê đầu tiên bước vào nghị trường với tâm hồn gắn bó cùng núi rừng và lòng son sắt với Đảng.
Từ cha, bà viết nên ca khúc “Khi cha nói với con về Đảng” đây là một khúc ca thấm đẫm tự hào và niềm tin. “Khi cha nói với con về Đảng, là sáng một niềm tin bao la, khi phong ba lúc yên bình, Đảng vẫn bên ta cùng đi, Đảng giữ cho ta niềm tin…” Ca từ, ý tứ trong bài hát từng khiến các ca sĩ là học trò cũ của nhạc sỹ Linh Nga Niê Kdam từ thuở thiếu thời như: Y Moan Enuôl, Siu Black, H'Zi Na BYă, Y Phôn Ksor và nhiều ca sĩ người DTTS phải rơi lệ khi nhớ về những ngày buôn làng bị kẻ xấu lôi kéo. Giai điệu ấy là cách bà viết tiếp lời cha, khẳng định rằng niềm tin vào Đảng, vào Nhân dân không bao giờ nguôi ngoai.
Nếu phải gọi tên những người dành trọn đời cho văn hóa Tây Nguyên, Linh Nga Niê Kdam chắc chắn đứng ở hàng tiên phong. Nhiều năm làm Giám đốc Cơ quan Đài Tiếng nói Việt Nam thường trú khu vực Tây Nguyên, bà đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu có giá trị như: “Vì gió mà nhớ”, “Con rắn màu xanh” đến hàng trăm bài viết hàn lâm về văn hóa dân gian.
Lấy chồng người dân tộc Khmer, Linh Nga Niê Kdam còn dấn thân nghiên cứu văn hóa các DTTS vùng đất Nam Bộ, bắc nhịp cầu nối Tây Nguyên - Đồng bằng sông Cửu Long, để thấy rằng mỗi tộc người đều góp phần tạo nên sự phong phú, bền vững cho văn hóa Việt Nam.

Bà Linh Nga Niê K’Đăm là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa V, VI; Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam khóa II - VII; Hội Văn nghệ các DTTS; nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk; Nguyên Phó Giám đốc Thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại Tây Nguyên… Bà đã đạt các giải thưởng của Hội Nhạc sĩ Việt Nam; Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam; Hội Nhà báo Việt Nam; Huân chương Lao động hạng Ba…
Điều đặc biệt ở bà là sự nhạy cảm đến mức… khó tính. Một slogan sai lệch về món ăn Tây Nguyên, một ngôi nhà sàn dựng vội, hay tin một nghệ nhân ra đi cũng khiến trái tim bà trăn trở, thổn thức. Bà luôn lên tiếng, chỉnh sửa, bảo vệ để hình ảnh Tây Nguyên không bị giản lược, bóp méo hay quên lãng. Với bà, văn hóa không chỉ là công trình nghiên cứu, mà phải hiện diện sống động trong đời sống hằng ngày.
Không chỉ là học giả của “xứ xở mà con cái đặt tên cho cha mẹ” biết bao nhà báo, nhà nghiên cứu, sinh viên, đặc biệt là con em người DTTS đều tìm đến bà để được động viên, góp ý, khơi mở tri thức. Các luận văn, luận án liên quan đến văn hóa Tây Nguyên hầu hết đều có dấu ấn phản biện từ bà. Người ta bảo: “Không ai yêu văn hóa Tây Nguyên bằng Linh Nga Niê Kdam, và cũng không ai lo cho sự mai một của nó nhiều như bà.”
Trong ngôi nhà nhỏ dưới giàn hoa giấy trắng ở Buôn Ma Thuột, bà ngày ngày trò chuyện với sinh viên, nhà báo, vẫn lưu giữ từng tấm ảnh, từng tập tài liệu, từng băng ghi âm giọng kể khan của nghệ nhân như một kho báu của dân tộc.
Sinh ra ở Hà Nội nhưng chọn hiến dâng cho Tây Nguyên, bà thường nói: “Tôi chỉ đang trả nợ cho đất mẹ". Câu nói ấy là lời tự sự của cả một hành trình: từ tuổi xuân đến khi tóc bạc, từ niềm vui đến nỗi lo mai một, từ đam mê nghiên cứu đến những giọt nước mắt khi một điệu chiêng, một lời khan dần phai theo thời gian.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Linh Nga Niê Kdam (ngoài cùng bên phải) trong một chuyến đi điền dã mới đâyNgày nay, chỉ cần gõ tên bà, hàng chục công trình, bài báo, phỏng vấn hiện ra, chứng minh hình ảnh nữ sĩ Linh Nga Niê Kdam đã là một nét văn hóa riêng có. Hằng tuần, bất kể thời tiết thế nào bà vẫn đi khắp buôn xa làng gần để sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian, vẫn dạy thanh nhạc miễn phí cho con em người DTTS, công việc bà đã kiên trì thực hiện kể từ năm 1973.
Mỗi mùa Hè, Quỹ Khuyến học mang tên cha - Nhà giáo Nhân dân Y Ngông Niê Kdam do bà quản lý lại trao học bổng cho học sinh ở Cư M’gar, Krông Ana, Lắk, Krông Búk… như cách nối dài di sản giáo dục mà cha để lại. Quỹ không chỉ là phần thưởng, mà còn là lời nhắn gửi: học sinh dân tộc vùng khó khăn xứng đáng được kỳ vọng, các em không đơn độc trên con đường học tập, và có thể viết nên câu chuyện bằng tri thức.
Nặng trĩu tình yêu với xứ sở của những chàng trai, cô gái “da nâu mắt sáng”, bà hóa thành chứng nhân, thành người “giữ lửa” văn hóa, thành đứa con hiếu thảo âm thầm trả món nợ xanh thẳm cho đất mẹ nghĩa tình.