Tại nhiều địa phương việc triển khai Dự án 8 bị thu hẹp phạm vi, đối tượng thụ hưởng so với đầu giai đoạnĐối tượng, phạm vi thực hiện bị thu hẹp
Theo Quyết định 1719, trong giai đoạn I, Dự án 8 được triển khai trên địa bàn 40 tỉnh, thành được đầu tư từ nguồn ngân sách Trung ương và 10 tỉnh, thành tự chủ ngân sách của địa phương.
Hội LHPN Việt Nam đã căn cứ tình hình thực tế tại các địa phương để ban hành kế hoạch triển khai Dự án 8 giai đoạn I và hàng năm, gắn với nhiệm vụ công tác Hội; đồng thời chủ động phối hợp với các sở, ngành liên quan triển khai Dự án.
Ngay từ đầu giai đoạn, căn cứ số lượng thôn, xã đặc biệt khó khăn và các vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ, trẻ em tại từng địa phương, Trung ương Hội đã rà soát nhu cầu các tỉnh để phân bổ chỉ tiêu thực hiện Dự án 8 giai đoạn I và hàng năm cho 40 tỉnh sử dụng ngân sách Trung ương.
Đối với 10 tỉnh tự chủ ngân sách, Hội LHPN căn cứ điều kiện thực tế và khả năng ngân sách địa phương để xây dựng chỉ tiêu, nội dung và mô hình phù hợp.
Trung ương Hội LHPN Việt Nam đã tổ chức các hội thảo khoa học để rà soát, xác định các vấn đề cấp thiết, đặc thù đối với phụ nữ và trẻ Tuy nhiên, hiện nay, do phạm vi địa bàn triển khai Dự án 8 bị thu hẹp, số lượng đối tượng thụ hưởng ngày càng giảm, việc giải ngân thực hiện các mô hình của Dự án chưa đạt mục tiêu so với đầu giai đoạn.
Theo bà Nguyễn Thị Minh Hương, đầu giai đoạn, một số xã nằm trong phạm vi, địa bàn được triển khai Dự án 8 theo Quyết định 1719/QĐ-TTg nay đã đạt chuẩn nông thôn mới, không còn thuộc địa bàn triển khai Dự án, dẫn đến phải tạm dừng hỗ trợ triển khai hoạt động.
Minh chứng như, tại xã Hữu Liên, tỉnh Lạng Sơn, được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai xã Yên Thịnh và Hữu Liên cũ, sau sáp nhập, địa bàn xã không còn thuộc khu vực đặc biệt khó khăn nên không còn đối tượng để triển khai các mô hình của Dự án 8.
Cần hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ DTTSÔng Khổng Hồng Minh, Phó Chủ tịch UBND xã Hữu Liên, cho biết: xã Hữu Liên được thành lập từ việc sáp nhập hai xã cũ, và hiện không còn đối tượng để triển khai các mô hình của Dự án 8 do không nằm trong địa bàn đặc biệt khó khăn.
“Không để ai bị bỏ lại phía sau”
Trong giai đoạn I, một số chỉ tiêu và hoạt động của Dự án 8 gặp khó khăn trong triển khai, như: hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ DTTS; mô hình sinh kế cho nạn nhân mua bán người trở về do thiếu đối tượng; mô hình tổ tiết kiệm vốn vay thôn/bản vướng quy định nên không thực hiện được.
Việc thiết kế, xây dựng Dự án 8 trong giai đoạn tới cần bảo đảm mọi phụ nữ, dù ở bất cứ vùng miền nào, đều có cơ hội phát triển và không ai bị bỏ lại phía sauĐể tháo gỡ vướng mắc, Hội LHPN Việt Nam đã tham mưu điều chỉnh, bổ sung một số nội dung trong Quyết định 1719, mở rộng phạm vi thực hiện Dự án 8 ra các xã, thôn vùng đồng bào DTTS và miền núi, nhằm bảo đảm tiếp cận toàn diện, đồng bộ về bình đẳng giới.
Đồng thời, bổ sung đối tượng và nội dung thụ hưởng chính sách hỗ trợ phụ nữ sinh đẻ an toàn, chăm sóc sức khỏe trẻ em; điều chỉnh nội dung hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ cho các tổ nhóm sinh kế, tổ hợp tác, hợp tác xã do phụ nữ quản lý.
Ngoài ra, Dự án cũng mở rộng đối tượng thí điểm mô hình sinh kế, hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân bị mua bán người, bao gồm cả nạn nhân bạo lực gia đình, phụ nữ di cư lao động không an toàn, phụ nữ nghèo và phụ nữ khuyết tật, nhằm phù hợp hơn với thực tế tại các địa phương.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2026–2030, đặc biệt trong bối cảnh sắp xếp bộ máy toàn hệ thống chính trị và chuyển đổi số mạnh mẽ, sẽ phát sinh những cơ hội, yêu cầu mới và thách thức trong việc tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình.
Hội LHPN Việt Nam đề xuất các mục tiêu bình đẳng giới nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi định kiến giới, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ và chăm sóc phụ nữ, trẻ emĐể thiết kế, xây dựng Dự án 8 cho giai đoạn tiếp theo, Trung ương Hội LHPN Việt Nam đã tổ chức các hội thảo khoa học để rà soát, xác định các vấn đề cấp thiết, đặc thù đối với phụ nữ và trẻ em tại các vùng miền; tổ chức hội thảo cấp quốc gia tham vấn các bộ, ngành và chuyên gia để lựa chọn vấn đề phù hợp; đồng thời dựa trên kết quả đánh giá Dự án đầu kỳ, giữa kỳ và báo cáo đánh giá giai đoạn I.
Trên cơ sở đó, giai đoạn 2026–2030, Hội LHPN Việt Nam đề xuất các mục tiêu bình đẳng giới nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi định kiến giới, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ và chăm sóc phụ nữ, trẻ em; hỗ trợ nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ vùng đồng bào DTTS và miền núi; giải quyết một số vấn đề xã hội cấp thiết như: nâng cao nhận thức, năng lực và hỗ trợ thúc đẩy sáng kiến của phụ nữ và trẻ em trong phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu, hỗ trợ cải thiện điều kiện vệ sinh và sử dụng nước sạch.
Đồng thời, Hội LHPN kiến nghị mở rộng phạm vi địa bàn và đối tượng thụ hưởng của Dự án đến toàn bộ người dân sinh sống tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhằm bảo đảm tiếp cận toàn diện, đồng bộ về bình đẳng giới.
Việc xây dựng thiết kế các cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy bình đẳng giới, giải quyết vấn đề xã hội cấp thiết, góp phần hiện thực hóa mục tiêu “Không để ai bị bỏ lại phía sau” Theo bà Nguyễn Thị Tuyến, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, trong giai đoạn tới, Hội sẽ tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức, thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” của phụ nữ và trẻ em gái vùng đồng bào DTTS, miền núi.
Đồng thời, Hội sẽ nghiên cứu, đề xuất các chính sách đặc thù thúc đẩy bình đẳng giới, giải quyết vấn đề xã hội cấp thiết, góp phần hiện thực hóa mục tiêu “Không để ai bị bỏ lại phía sau” và Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021–2030.