Nơi Khải cùng bản Mông của anh tìm đến lập cư là vùng rừng sâu, quê hương của đồng bào Cơ-ho. Người miền núi nơi này cũng nghèo, cũng khổ không hơn gì những người anh em từ phương xa đến. Chỉ khác chăng là họ đã sinh sống gắn bó, là “chủ cũ” lâu đời giữa đại ngàn Tây Nguyên…
Anh Thào Hùng Khải kể mà ánh mắt như có ngấn nước: “Rồi người Mông cũng tìm được nơi lập bản mới giữa rừng sâu Lâm Đồng. Dù đó là vùng xa xôi heo hút nhất nhưng đất ruộng, đất nương hầu như đều đã có chủ. Người Mông trên quê mới càng thêm phần lo lắng, hoang mang cho cuộc mưu sinh phía trước khi chưa biết cách nào tìm ra chỗ trồng tỉa”.
Đã qua mấy ngày chặt cây lợp lán, người trẻ người già đang mệt mỏi rã rời sau cuộc hành trình dài, thì bản Mông có khách đến thăm. Khách của họ là già làng K’Gíp và những người đàn ông, đàn bà Cơ-ho ở buôn kế bên. Quà mà khách mang đến là một ché lớn rượu cần, một nửa con thú săn mấy bữa trước, những mớ rau rừng vừa hái, những gùi bắp bẻ vội từ nương.
Khi những chiếc gùi được đặt xuống từ lưng những người phụ nữ thì bữa tiệc kết giao liền đó cũng được mở ra giữa bãi cỏ bên suối. Phụ nữ nướng thịt, đàn ông khui rượu. Giọng nói, tiếng cười rộn rã, lẫn lộn tiếng Mông, tiếng Cơ-ho. Ngà ngà say, già làng K’Gíp chém tay xuống đất và nói: “Là Bắc hay Nam thì anh em chúng ta cũng là người gắn bó máu thịt với rừng. Sống ở rừng, cứ tuân theo luật của rừng mà ứng xử. Có chỗ đất tốt thì nhường cho nhau vài thửa, có miếng thịt, mớ rau thì san sẻ cho nhau một ít. Của rừng thì cùng ăn chung mà!”.
Ai cũng biết, người Mông vốn săn bắn giỏi. Đàn ông Mông đã mang ná vào rừng là có thú dính vào mũi tên, đã đặt bẫy là có thú bị sập. Người Mông đến lập cư trên quê mới cũng coi việc săn bắn là sở thích và nghề mưu sinh. Bẫy đặt giữa rừng sâu, lâu lâu chủ mới ghé thăm. Nếu bắt được thú to thì kêu cả bản khiêng về, xẻ thịt ăn chung. Nhiều người bạn kể rằng, người Mông thường khiêm nhường nói với họ: “Gặp bẫy của người Mông ta giữa rừng có thú bị sập cứ lấy về ăn, đừng phá hư cái bẫy là được. Của rừng thì cùng ăn chung mà!”.
Những “chủ rừng” cũ ở Tây Nguyên như người Cơ-ho, người Mạ, người X’Tiêng, người Mnông cũng nói với người Mông, người Thái, người Tày, người Nùng mới di cư đến: “Qua rẫy của ta, nếu vợ con anh ở nhà đói thì cứ bẻ bắp, suốt lúa đưa về mà ăn. À mà chọn cái bắp già, đừng bẻ bắp non mà đau cái cây. Lúa cũng vậy, đừng suốt hạt lúa khi còn ngậm sữa, Yàng Koi phạt đấy”.
Sống trên cao, những tộc người xứ núi không biết đến ngôn ngữ màu mè, họ không có nhiều lời để giải thích những việc mình làm. Họ chỉ biết nghĩ rằng, cha ông làm sao thì mình làm vậy.
Hấp thu minh triết của rừng, các dân tộc anh em đã ứng xử với nhau bằng một đạo lý sẻ chia nguồn sống một cách tự nhiên. Luật không thành văn của những dân tộc cùng nhau sinh tồn giữa đại ngàn có nguồn gốc từ nhân tình vốn có, bình thường mà cao cả. Sự cộng cảm qua triết lý ăn chung của họ làm cho núi rừng thêm hùng vĩ, thiêng liêng.