Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Kinh tế

Nâng tầm giá trị chè Tân Uyên trong chuỗi xuất khẩu nông sản

Châm Võ - 3 giờ trước

Nhờ chiến lược phát triển vùng nguyên liệu bền vững và mở rộng hợp tác với doanh nghiệp, thị trường quốc tế, chè Tân Uyên, tỉnh Lai Châu đang từng bước khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị xuất khẩu nông sản. Với chất lượng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và thương hiệu ngày càng được nâng tầm, sản phẩm chè vùng cao Tân Uyên kỳ vọng trở thành một trong những nông sản chủ lực đóng góp cho hoạt động đối ngoại kinh tế và xuất khẩu của tỉnh Lai Châu.

Vùng nguyên liệu chè thuộc xã Tân Uyên, tỉnh Lai Châu.
Vùng nguyên liệu chè thuộc xã Tân Uyên, tỉnh Lai Châu.

Phát triển vùng nguyên liệu bền vững

Đến với Tân Uyên, chúng tôi bị hút hồn bởi những nương chè xanh mướt trong cái lạnh mùa đông vùng cao. Những bàn tay thoăn thoắt, tiếng nói cười rộn ràng giữa không gian trong trẻo của núi rừng như át đi cái rét buổi sớm, khi bà con đang “hái vét” lứa chè cuối năm. Với người dân Tân Uyên, chè không chỉ là cây trồng truyền thống mang lại sinh kế ổn định mà còn giúp đồng bào thoát nghèo thông qua xuất khẩu nông sản chất lượng cao, góp phần thay đổi diện mạo kinh tế địa phương.

Ông Chu Văn Thanh, Chủ tịch UBND xã Tân Uyên cho biết, Tân Uyên nằm trên trục giao thông chiến lược với Quốc lộ 32 và tuyến kết nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai - Lai Châu. Xã cũng nằm giữa hai vùng du lịch Sa Pa và Mù Cang Chải, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ thương mại, du lịch. Bên cạnh đó, diện tích tự nhiên lớn, khí hậu phù hợp và lực lượng lao động dồi dào cũng là lợi thế để Tân Uyên xây dựng nhà máy và phát triển các sản phẩm nông nghiệp đặc thù.

Với định hướng nông nghiệp xanh, hiện đại và bền vững, Tân Uyên đang trở thành một trong những vùng chè trọng điểm của tỉnh Lai Châu. Toàn xã có 3.400 ha chè, đóng góp đáng kể vào tổng diện tích 10.500 ha chè của tỉnh, hình thành vùng nguyên liệu tập trung lớn của khu vực Tây Bắc. Mỗi năm, Tân Uyên cung ứng khoảng 29.000 tấn chè búp tươi. Hai giống chủ lực là Kim Tuyên và Shan Tuyết, nổi bật nhờ chất lượng và hương vị đặc trưng.

Phát triển cây chè tạo sinh kế ổn định cho người nông dân.
Phát triển cây chè tạo sinh kế ổn định cho người nông dân.

Hạ tầng chế biến được đầu tư đồng bộ với 4 công ty, hợp tác xã vận hành 15 nhà máy chế biến chè thường xuyên. Hệ thống này giúp nâng cao giá trị sản phẩm và bảo đảm đầu ra ổn định cho người trồng chè. Những con số trên cho thấy nỗ lực lớn của Tân Uyên trong việc xây dựng ngành chè thành trụ cột kinh tế và điểm sáng nông nghiệp của địa phương.

Để có được kết quả này, Tân Uyên đã quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung, chuyển từ canh tác nhỏ lẻ sang sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và hữu cơ. Xã chú trọng phát triển mô hình kinh tế trọng điểm nhằm thu hút đầu tư, liên kết hình thành vùng sản xuất hàng hóa gắn với chế biến, tiêu thụ. Đồng thời, địa phương cũng kêu gọi doanh nghiệp, HTX hợp tác với người dân để xây dựng các nhà máy theo hướng chuyên sâu.

Công ty cổ phần trà Than Uyên là một trong những đơn vị tiên phong xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn VietGAP và triển khai cấp mã số vùng trồng, tăng khả năng truy xuất nguồn gốc và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Tháng 3/2024, nhà máy chế biến chè của Công ty cổ phần trà Tân Uyên đi vào hoạt động. Đây là doanh nghiệp trà thứ hai (sau Công ty cổ phần trà Than Uyên) hoạt động bài bản với quy mô lớn, liên kết với các cơ sở sản xuất khác để tạo ra sản phẩm chè chất lượng cao. Nhà máy mở ra cơ hội nâng giá trị chè Tân Uyên và tạo việc làm cho lao động địa phương.

Ông Nguyễn Hải Ninh, hộ trồng chè lâu năm tại Tân Uyên cho biết, từ khi doanh nghiệp đầu tư chế biến và ký hợp đồng bao tiêu, giá chè ổn định hơn, thu nhập của bà con cải thiện rõ rệt.

Hoạt động sản xuất tại xưởng chế biến chè tại xã Tân Uyên.
Hoạt động sản xuất tại xưởng chế biến chè tại xã Tân Uyên.

Với chiến lược mở rộng diện tích gắn với nông nghiệp bền vững, phát triển chuỗi chế biến - tiêu thụ và xây dựng thương hiệu, chè Tân Uyên đang dần vượt khỏi phạm vi “vùng sản xuất truyền thống”. Sản phẩm chè của địa phương từng bước khẳng định vị thế trong ngành chè Lai Châu, hướng tới mục tiêu xuất khẩu ổn định và nâng cao giá trị cho cây chè vùng cao.

Mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu chè Tân Uyên

Những nỗ lực xây dựng vùng nguyên liệu bền vững không chỉ giúp Tân Uyên nâng cao chất lượng chè mà còn tạo nền tảng quan trọng để sản phẩm địa phương bước ra thị trường quốc tế.

Ông Vũ Hoàng Mạnh, Giám đốc điều hành Công ty cổ phần trà Than Uyên cho biết, sản phẩm chè Tân Uyên đã được xuất khẩu sang nhiều thị trường khó tính như EU, Tây Á, Đài Loan, Trung Quốc… Việc đầu tư đổi mới công nghệ và dây chuyền thiết bị giúp doanh nghiệp sản xuất được các dòng chè chất lượng cao, đáp ứng tốt tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ đó, khả năng cạnh tranh của chè Tân Uyên ngày càng tăng. Mỗi năm, công ty cung cấp khoảng 2.000 tấn chè khô ra thị trường, trong đó 60 - 70% là xuất khẩu, chủ yếu gồm hai sản phẩm: chè duỗi và chè xanh sao.

Công nhân phân loại và xử lý nguyên liệu chè tươi trên dây chuyền chế biến tại nhà máy.
Công nhân phân loại và xử lý nguyên liệu chè tươi trên dây chuyền chế biến tại nhà máy.

Hướng tới mục tiêu xây dựng vùng chè Tân Uyên đạt chuẩn phục vụ chế biến sâu và xuất khẩu, xã đã mở rộng diện tích, phát triển vùng chè VietGAP và hữu cơ. Đồng thời, địa phương phối hợp với doanh nghiệp, HTX chuẩn hóa quy trình sản xuất và hỗ trợ bà con tiếp cận khoa học kỹ thuật theo hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn với kinh tế tuần hoàn.

Theo lãnh đạo Công ty cổ phần trà Than Uyên, tỉnh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm và chỉ dẫn địa lý cho các nông sản thế mạnh, đặc biệt là chè. Đây là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp yên tâm đầu tư, nâng cao chất lượng và uy tín sản phẩm.

Song song với mở rộng diện tích và đổi mới dây chuyền sản xuất, tỉnh Lai Châu triển khai chương trình xây dựng thương hiệu, hướng tới chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm chè. Ngày 19/8/2025, Cục Sở hữu trí tuệ ban hành Quyết định số 559/QĐ-SHTT, cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý số 00146 cho chè Lai Châu. Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho ba dòng sản phẩm: chè xanh, chè Ô long và chè Đông phương mỹ nhân. Trong đó, chè xanh được chế biến từ búp 1 tôm 2 lá non của giống Shan Tuyết cổ thụ; chè Ô long và Đông phương mỹ nhân được chế biến từ giống Kim Tuyên trồng tại khu vực địa lý Lai Châu.

Người dân và du khách trải nghiệm và thưởng trà tại một cơ sở sản xuất chè ở xã Tân Uyên (Lai Châu), góp phần quảng bá giá trị văn hóa - nông nghiệp của vùng chè địa phương.
Người dân và du khách trải nghiệm và thưởng trà tại một cơ sở sản xuất chè ở xã Tân Uyên (Lai Châu), góp phần quảng bá giá trị văn hóa - nông nghiệp của vùng chè địa phương.

Bên cạnh sản xuất, Tân Uyên còn kết hợp phát triển du lịch trải nghiệm như hái chè, thưởng trà, đồng thời hỗ trợ sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc. Đây là hướng đi tối ưu hóa cả ba giá trị: kinh tế - xã hội - môi trường; vừa tăng nguồn thu, vừa gắn phát triển du lịch với bảo tồn văn hóa và nâng cao sức hấp dẫn của sản phẩm chè.

Nhờ các chủ trương đúng đắn của tỉnh, sự đồng thuận của người dân và sự đồng hành của doanh nghiệp, chè Tân Uyên đang từng bước được “nâng tầm” trên cả thị trường trong nước và quốc tế.

Tuy nhiên, để cây chè thực sự trở thành ngành hàng trụ cột trong chuỗi xuất khẩu nông sản, Tân Uyên cần tiếp tục mở rộng vùng chè chất lượng cao, đẩy mạnh chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm đặc sản và đầu tư bài bản cho xây dựng thương hiệu. Phát huy lợi thế tự nhiên và văn hóa, gắn với yêu cầu bảo vệ môi trường, chè Tân Uyên hoàn toàn có thể vươn xa, trở thành niềm tự hào của nông sản Lai Châu trên thị trường thế giới.

Tin cùng chuyên mục
Từ nguồn vốn ưu đãi đến diện mạo mới: Nước sạch về với đồng bào Đắk Song

Từ nguồn vốn ưu đãi đến diện mạo mới: Nước sạch về với đồng bào Đắk Song

Nguồn vốn ưu đãi từ Chương trình cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đã giúp hàng nghìn hộ dân Đắk Song, trong đó có nhiều hộ đồng bào DTTS, cải thiện điều kiện sinh hoạt, đảm bảo sức khỏe và góp phần thay đổi diện mạo nông thôn mới. Những công trình nước sạch, nhà vệ sinh đạt chuẩn đang trở thành điểm tựa nâng cao chất lượng cuộc sống nơi vùng đất còn nhiều khó khăn.