Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Sắc màu 54

Người Cơ Tu duy nhất biết đan mâm cơm ở Công Dồn

Hồng Phúc - Văn Sơn - 15:16, 13/08/2025

Trong cơn mưa rừng Trường Sơn nặng hạt, gió lạnh cắt da, chúng tôi ghé vào một ngôi nhà ở thôn Công Dồn, xã Nam Giang (TP. Đà Nẵng) để tránh mưa. Bên bếp lửa đỏ rực, một người đàn ông Cơ Tu ngoài 60 tuổi với nước da trắng đang cặm cụi đan chiếc gùi. Đó là ông là Tơngôl Đa, người đã gắn bó cả đời với nghề đan lát thủ công truyền thống. Điều đặc biệt là cả thôn giờ chỉ còn duy nhất ông biết đan mâm cơm - vật dụng dùng trong lễ hội và cúng bái.

Những ngày cuối tuần, lúc rảnh rỗi, ông Đa thường gọi con cháu, những đứa trẻ Cơ Tu trong thôn về nhà mình để truyền nghề đan lát. Ảnh: Văn Sơn
Những ngày cuối tuần, lúc rảnh rỗi, ông Đa thường gọi con cháu, những đứa trẻ Cơ Tu trong thôn về nhà mình để truyền nghề đan lát. (Ảnh: Văn Sơn)

Trong căn bếp ấm áp, rót chén trà nóng mời chúng tôi, ông chậm rãi kể về cơ duyên đến với nghề từ thuở nhỏ. Đó là khi ông say mê quan sát cha đan những vật dụng quen thuộc cho gia đình: Gùi rau, gùi lúa, nia, mâm… Tất cả được làm từ tre, lồ ô, nứa, giang, mây rừng - nguyên liệu sẵn có nơi núi cao. Mỗi công đoạn đều có quy trình chặt chẽ, công phu, nếu không kiên trì sẽ bỏ cuộc. Sự tò mò ngày ấy dần biến thành đam mê, rồi thành thạo mọi kỹ thuật cha truyền lại.

Những ngón tay chai sần, lấm tấm sẹo là minh chứng cho năm tháng miệt mài của ông Đa đã gắn bó với nghề truyền thống của quê hương. Cầm trên tay chiếc gùi đan dỡ để kịp ngày mai giao cho bà con trong thôn kịp đi rẫy, ông vừa làm vừa hay, nguyên liệu được chặt thành khúc 50 - 60 cm, chẻ nan, phơi trên gác bếp vài ngày cho khói bám để chống mọt, giúp nan dẻo và bền.

Theo ông Đa, gùi của người Cơ Tu thường có ba phần: Thân đan bằng mây, bốn thanh gỗ nẹp dọc giữ dáng, dây mang bằng mây hoặc vỏ cây. Tùy công dụng mà đan thưa (gùi củi, sắn) hay đan khít (gùi lúa, muối). Vùng cao như Công Dồn thường làm gùi đế nhỏ, miệng to; vùng thấp thì miệng và đáy gần bằng nhau. Riêng gùi ba ngăn (tà léc) của đàn ông hay p’rôm của phụ nữ đi lễ hội có thể mất cả tháng chế tác.

Ông Đa đang giới thiệu những sản phẩm đan lát truyền thống của người Cơ Tu do ông làm ra. Ảnh: Văn Sơn
Ông Đa đang giới thiệu những sản phẩm đan lát truyền thống của người Cơ Tu do ông làm ra. (Ảnh: Văn Sơn)

Sau khi hoàn thành, sản phẩm được treo trên gác bếp cho khói hun, vừa chống mối mọt vừa giữ độ bền 15 - 20 năm. “Một chiếc gùi tốt có thể dùng cả đời, chỉ cần thay dây vài lần”, ông Đa chia sẻ.

Từ bàn tay tài hoa của ông Đa, nhiều vật dụng của người Cơ Tu ra đời: Gùi lúa (h’đool), gùi rau (pr’eng), gùi sắn (adong kiêr), gùi củi (adong mặt), gùi cá (achuy), giỏ tuốt lúa (a rêy), mâm nước (apớg rơb hêê), nia sẩy lúa (cà vông), rổ đựng rau (cà lông)… để phục vụ đời sống bà con. 

Với giá bán hợp lý: Rổ, nia: 150 - 300 ngàn đồng; gùi lúa: 400 - 700 ngàn đồng; mâm nước, mâm cơm 800 ngàn đồng - 1 triệu đồng; gùi ba ngăn và p’rôm 1,5 - 1,7 triệu đồng. 

Điều đặc biệt là, cả thôn giờ chỉ còn duy nhất ông biết đan mâm cơm - vật dụng dùng trong lễ hội và cúng bái.

Người dân Công Dồn rất quý trọng tay nghề của ông. Ông Bling Do (52 tuổi) nhận xét: “Các loại gùi, vật dụng từ mây, tre, lồ ô mà anh Đa làm rất tỉ mỉ, sáng tạo, bền chắc nhưng vẫn giữ được cái hồn dân tộc. Giá cả lại hợp lý nên ai cũng đặt hàng”. 

Tương tự, bà Pơling Muối (63 tuổi) cho hay: “Khi bà con không có tiền, anh Đa sẵn sàng đổi sản phẩm lấy gạo, con vịt, con gà, thậm chí con heo nhỏ. Tôi mới xây nhà xong cũng đặt vài sản phẩm của anh về dùng và để giữ được văn hóa truyền thống của dân tộc mình trong nếp nhà”.

Sản phẩm đan lát của người Cơ Tu với đa dạng chủng loại. (Ảnh: TM).
Sản phẩm đan lát của người Cơ Tu với đa dạng chủng loại. (Ảnh: TM)

Trung bình mỗi năm, ông Tơngôl Đa làm 20 - 30 sản phẩm. Tuổi cao, mắt mờ, tay yếu khiến ông không còn vào rừng nhiều như trước. Mỗi lần chỉ chặt vài cây mây, tre, lồ ô mang về đan dần. “Nghề này không chỉ là mưu sinh mà còn là niềm vui, đam mê và trách nhiệm. Tôi sợ rằng nếu không truyền lại, nghề sẽ mất cùng thế hệ mình”, ông Đa nói. Những ngày cuối tuần, ông gọi con cháu và trẻ trong thôn về nhà truyền dạy, nhắc nhở chúng yêu nghề, giữ nghề.

Ông Doãn Bing, Phó Chủ tịch UBND xã Nam Giang, TP. Đà Nẵng, cho biết: ông Tơngôl Đa là một trong những người Cơ Tu lớn tuổi còn duy trì nghề đan lát trên địa bàn. Các sản phẩm do ông Đa làm ra đều rất tỉ mỉ, bắt mắt và được nhiều người dân trong vùng ưa chuộng. 

Trong thời gian tới, xã tiếp tục vận động, tuyên truyền bà con trên địa bàn chung tay bảo tồn văn hóa truyền thống của người Cơ Tu, kêu gọi người trẻ tích cực học nghề truyền thống từ những thế hệ lớn tuổi, như dệt thổ cẩm, đan lát, để kiếm thêm thu nhập và gìn giữ nghề không bị mai một.

Mâm cơm bằng mây của người Cơ Tu. Ảnh: internet
Mâm cơm bằng mây của người Cơ Tu. Ảnh: internet

Nam Giang - vùng đất dưới chân núi Coong Chang vẫn lưu giữ nhiều phong tục, tín ngưỡng, lễ hội, nghề dệt thổ cẩm, đan lát… gắn với phát triển du lịch cộng đồng. Và trong bức tranh Nam Giang tươi đẹp không thể thiếu được hình ảnh người đàn ông Cơ Tu miệt mài đan lát, giữ nghề truyền thống của dân tộc mình. Trong từng sợi nan, sợi mây là tình yêu, sự kiên nhẫn và khát vọng của ông Đa, để những giá trị văn hóa không bị mai một giữa đại ngàn Trường Sơn.

Tin cùng chuyên mục
Người phụ nữ Pà Thẻn thắp sáng ước mơ đưa thổ cẩm dân tộc ra thế giới

Người phụ nữ Pà Thẻn thắp sáng ước mơ đưa thổ cẩm dân tộc ra thế giới

Tại thôn My Bắc, xã Tân Trịnh, tỉnh Tuyên Quang, một người phụ nữ dân tộc Pà Thẻn đang từng ngày bền bỉ giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống qua từng sợi chỉ, từng hoa văn thổ cẩm. Đó là chị Tải Thị Mai, Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) Thổ cẩm Pà Thẻn. Tuổi thanh xuân của chị gần như để thắp sáng giấc mơ đưa thổ cẩm của dân tộc mình ra thế giới.