Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Phóng sự

Người tạo ra chữ viết Chăm Hroi

Đào Đức Tuấn - 09:27, 15/07/2020

Hơn 90 mùa rẫy, ông Ka Sô Liễng vẫn khỏe mạnh, lao động hằng ngày, nhất là từ khi rời căn nhà tiện nghi ở TP. Tuy Hòa để về buôn Kiến Thiết, xã Ea Chà Rang, huyện Sơn Hòa (Phú Yên). Với trăn trở “Sao người Chăm Hroi không có chữ viết?”, gần như cả cuộc đời Ka Sô Liễng đã đi tìm và thành công trong tạo tác chữ viết cho dân tộc mình.

Ông Ka Sô Liễng (ngoài cùng bên phải) đang dạy chữ Chăm Hroi
Ông Ka Sô Liễng (ngoài cùng bên phải) đang dạy chữ Chăm Hroi

Làm chữ cho dân tộc mình 

Nhớ lại những tác phẩm đầu tiên sưu tầm văn nghệ dân gian Tây Nguyên, phải mượn chữ Ê Đê để ghi chép ký âm, ông Ka Sô Liễng nói: “Tôi thấy không ổn, bởi không thể hiện hết cái hồn của đồng bào Chăm Hroi”. 

Thế là ông mày mò suy nghĩ, mượn một phần chữ Ê Đê cùng mẫu tự Latin, rồi sáng chế ra chữ viết cho người Chăm Hroi. Cần mẫn ký âm, ghi chép, đối chiếu các bài hát, trường ca Chăm Hroi, rồi ông kiểm chứng qua các già làng và các nhà ngôn ngữ học. Được nhiều người công nhận là một hướng đi, cách làm khoa học, ông càng say mê với hệ thống chữ viết cho người Chăm Hroi. 

Bộ chữ Chăm Hroi do Ka Sô Liễng sáng tạo đã cơ bản hoàn chỉnh vào năm 2010 và được chuyển đến Viện Ngôn ngữ học Việt Nam thẩm định công nhận. Theo Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận và Nam Bộ đã có chữ viết. Riêng người Chăm Hroi ở Phú Yên và Bình Định (trên 30.000 người) thì chưa có chữ viết, nên việc sáng tạo bộ chữ Chăm Hroi của ông Ka Sô Liễng có ý nghĩa hết sức lớn lao. 

Ông Ka Sô Liễng tâm sự: “Làm được cái chữ cho dân tộc mình, tôi thấy rất phấn khởi và tự hào. Nhờ có chữ viết, những trường ca của người Chăm Hroi tiếp tục được lưu truyền cho các thế hệ mai sau. Hễ ngày nào còn sức khỏe là tôi còn cố công sưu tầm, ghi chép để lớp trẻ sau này tự hào về dân tộc mình”.

Nhạc sĩ, nhà nghiên cứu văn hóa Linh Nga Niê Kdăm nhận xét: “Ka Sô Liễng cần mẫn với việc dùng những giọt mồ hôi của mình đổ ra, để rửa sạch những viên ngọc lâu nay nằm im dưới những lớp tro bụi thời gian, của một người làm công tác sưu tầm và dịch thuật. Ông chỉ có một mối day dứt, bận tâm duy nhất: Sau mình, lớp trẻ người dân tộc có ai say mê với văn hóa dân gian nữa không?”.

Ông Ka Sô Liễng trong vườn rừng của gia đình
Ông Ka Sô Liễng trong vườn rừng của gia đình

Không có đất nào xấu 

Bát ngát quanh nhà ông là những hàng xà cừ, keo, bạch đàn, huỳnh đàn, xoan, điều... Cây ăn quả có mít, xoài, dừa, chuối, bưởi, đu đủ... Những cây có giống từ ngoài Bắc cũng được đưa vào trồng thử như lồ ô, cọ, vầu... Rồi còn rất nhiều cây cảnh. Chưa hết, ông còn giới thiệu có nuôi trên 100 con gà giống địa phương để lấy trứng và bán thịt. Lại còn nuôi cá nước ngọt và dự định sẽ nuôi thỏ, cheo và tắc kè. “Mình đã có hàng trăm con tắc kè con để làm giống rồi”, ông khoe.

Để lại ngôi nhà ở TP. Tuy Hòa cho con ở, ông về sống với mấy ha đất đồi, cằn cỗi với những đá dăm, đá tảng. Vợ chồng ông xây nhà, khoan giếng, đào ao, cất trại chăn nuôi... vui thú điền viên. Đêm đêm, cửa sổ nhà ông hắt lên ánh sáng tĩnh lặng. Hàng xóm bảo: “Ông Liễng đang thức nghiên cứu, sưu tập và viết sách văn hóa dân tộc đấy!”. 

Còn già Liễng thì cười hiền: “Từ khi thoát khỏi cảnh tù túng ở phố về sống với núi rừng, công việc làm vườn vậy mà thảnh thơi. Tui luôn thấy mình khỏe ra! Mình già rồi, trồng cây cho vui mà! Tui muốn chứng minh rằng, không có đất nào là xấu, chỉ có mình siêng năng và biết làm hay không mà thôi, vì trước đây ai cũng chê chỗ này là đất cằn”. 

Ông lại rủ rỉ: “Mình chỉ nghĩ đơn giản, trồng cây là một thú vui như đi sưu tầm, viết sách về văn hóa dân tộc. Trồng cây cho xanh vườn, xanh nhà, mát mắt là sướng rồi. Rừng tự nhiên đang bị khai thác cạn kiệt, đất vườn nhà trơ trọi không một bóng cây. Đấy là cái tội của con người xử tệ với đất. Tôi muốn nói với mọi người: Hãy trồng cây cho đất thở. Đất thở là để mình sống”.

Nghe ông giảng giải, thấy kết quả ông làm; chúng tôi thầm nghĩ, không phải đi đâu xa, cứ đến vườn rừng nhà ông mà học cách sử dụng đất cho hiệu quả. Ông đã lặng lẽ làm nên cuộc “cách mạng vườn” cho bà con miền núi Sơn Hòa. Tuổi cao rồi, nhưng vị trưởng lão người Chăm Hroi Ka Sô Liễng vẫn một lòng đau đáu với đại ngàn, với dân tộc…

Nhà nghiên cứu, Nghệ nhân Ưu tú Ka Sô Liễng người dân tộc Chăm Hroi, sinh năm 1936 tại Phú Yên. Tốt nghiệp Khoa Đạo diễn Trường Đại học Sân khấu - điện ảnh Hà Nội. Từng giảng dạy mỹ học, đạo diễn sân khấu, Phó Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Phú Yên. Sưu tầm, dịch và giới thiệu các sử thi Tây Nguyên như: Xing Chi Ôn, Chi Lơ Kok, Giàng Hlắc xấu bụng, Hbia Ta Lúi - Ka li Pu, Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă, Tìm lại chị em Jông Uốt… Cùng với các tác phẩm nghiên cứu: Vài nét về văn hóa Chăm, Ghi chép trên đường đi… và một số tập thơ in chung.

Tin cùng chuyên mục
Gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa gắn với phát triển du lịch nơi rẻo cao Kỳ Sơn

Gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa gắn với phát triển du lịch nơi rẻo cao Kỳ Sơn

Lên Kỳ Sơn – huyện rẻo cao xứ Nghệ, đã không ít du khách từng cảm thấy mình “lạc lối”. Cũng bởi, nơi ấy không chỉ có “cổng trời” Mường Lống bảng lảng sương bay, tháp cổ Yên Hòa huyền bí, đỉnh Puxailaileng trên dãy Trường Sơn…; mà còn là những lễ hội Pu nhạ thầu, chọi bò, hoa mận, chợ phiên… thấp thoáng sau những cánh rừng pơ mu, sa mu tuyệt đẹp. Càng cuốn hút và hấp dẫn hơn khi đó là bản sắc văn hóa độc đáo lâu đời của cộng đồng các DTTS Mông, Thái, Khơ mú nơi đây.