Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Xã hội

Tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở 53 dân tộc thiểu số đã giảm nhưng chưa đồng đều

Ngọc Ánh - 11:59, 16/09/2021

Đó là kết quả Báo cáo “Số liệu về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019” và “Tóm tắt chính sách: Các vấn đề giới trong vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, do Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) phối hợp với Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Vụ Dân tộc thiểu số (Ủy ban Dân tộc) phối hợp thực hiện, với sự hỗ trợ tài chính của Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam.

Báo cáo đưa ra các số liệu cụ thể về thực trạng TH&HNCHT của 53 DTTS ở Việt Nam
Báo cáo đưa ra các số liệu cụ thể về thực trạng TH&HNCHT của 53 DTTS ở Việt Nam

Nội dung hai báo cáo được công bố trong tháng 8/2021 gồm số liệu về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019, các kết quả phân tích giới và các khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong vùng DTTS ở Việt Nam.

Các nguồn số liệu, thông tin trong hai báo cáo nói trên được tính toán từ kết quả Điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế-xã hội của 53 DTTS ở Việt Nam do Tổng cục thống kê phối hợp với Ủy ban Dân tộc thực hiện năm 2015 và năm 2019.

Hai báo cáo tập trung vào 7 chủ đề chính là: Dân số; cơ sở hạ tầng và tài sản; lao động, việc làm, thu nhập; giáo dục và đào tạo; văn hoá và xã hội; y tế và vệ sinh môi trường; cán bộ, công chức là người DTTS.

Kết quả phân tích số liệu tách biệt giới tính trong giai đoạn 2015-2019 trong báo cáo cho thấy, những thành tựu nổi bật về bình đẳng giới trong các vùng DTTS và miền núi như: Tỷ lệ tảo hôn của người DTTS đã giảm 4,7 điểm phần trăm; tỷ lệ hộ gia đình DTTS có kết nối internet (Wi-Fi, cáp hoặc 3G) tăng 9,4 lần, từ 6,5% năm 2015 lên 61,3% năm 2019; thu nhập bình quân một nhân khẩu/tháng của người DTTS năm 2018 đã tăng 1,8 lần so với năm 2014 và thu nhập trung bình hằng tháng của hộ gia đình DTTS có chủ hộ là nữ luôn cao hơn so với chủ hộ là nam; tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em DTTS tăng 15,2% trong giai đoạn 2015 và 2019; tỷ lệ người DTTS tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,5% trong đó không có sự khác biệt giữa nam và nữ…

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, báo cáo cũng chỉ rõ một số vấn đề giới ảnh hưởng đến phụ nữ và trẻ em gái vẫn tiếp tục tồn tại trong vùng DTTS và miền núi. Tỷ lệ TH&HNCHT chung ở 53 DTTS tuy có giảm, tuy nhiên mức giảm chưa đồng đều, cá biệt vẫn tiếp tục tăng trong một số dân tộc như Mông, Cơ Lao, Mảng, Xinh Mun, Mạ.

Tình trạng hôn nhân cận huyết thống cũng đã giảm. Một số DTTS có tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống cao năm 2014, đến năm 2019 đã không còn tình trạng này như dân tộc Mạ, Mảng, Cơ Ho, Kháng, Chứt. Tuy nhiên, một số DTTS vẫn có tỷ lệ kết hôn cận huyết thống cao như: Mnông, La Chí, Bru Vân Kiều, Cơ Tu, Lô Lô, Gia Rai, La Ha…

Những phân tích về bình đẳng giới ở vùng DTTS trong Báo cáo là thông tin nền tảng và hữu ích cho các bên liên quan để thiết kế các chính sách và chương trình can thiệp để đảm bảo phụ nữ DTTS không bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển bền vững của đất nước.