Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Dân tộc - Tôn giáo

Cú hích chiến lược làm thay đổi diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số: Giáo dục, y tế được ưu tiên vượt trội – Bài 2

Hà Anh - 5 giờ trước

Việc ưu tiên mạnh mẽ cho giáo dục và y tế trong khuôn khổ Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số không chỉ thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số, mà còn là chiến lược phát triển con người toàn diện. Điều này nhằm tạo nền tảng vững chắc để thúc đẩy sự tiến bộ, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân tộc thiểu số.

Các chính sách hỗ trợ học phí, học bổng, xây dựng cơ sở vật chất và phát triển mạng lưới trường lớp, đã giúp giảm bớt những rào cản đối với việc đi học của học sinh DTTS. Ảnh TTXVN
Các chính sách hỗ trợ học phí, học bổng, xây dựng cơ sở vật chất và phát triển mạng lưới trường lớp, đã giúp giảm bớt những rào cản đối với việc đi học của học sinh DTTS. Ảnh TTXVN

Sự thay đổi mạnh mẽ của giáo dục vùng DTTS

Trong những năm qua, việc phát triển hệ thống trường Phổ thông Dân tộc nội trú (PTDTNT) và bán trú (PTDTBT) đã trở thành một trong những giải pháp chiến lược giúp học sinh dân tộc thiểu số (DTTS), đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, được tiếp cận môi trường học tập ổn định và lâu dài.

Theo số liệu mới nhất, tính đến cuối năm 2024, cả nước có 318 trường PTDTNT với khoảng 105.000 học sinh nội trú, cùng với 1.139 trường PTDTBT tại 29 tỉnh, thành phố, phục vụ hơn 245.000 học sinh bán trú. Hệ thống này không chỉ giúp rút ngắn khoảng cách tiếp cận giáo dục giữa các vùng miền mà còn góp phần đáng kể trong việc giảm thiểu tình trạng học sinh DTTS bỏ học.

Đồng thời, tỷ lệ trẻ em DTTS đến trường đúng độ tuổi đã đạt 89%, phản ánh hiệu quả của các chính sách khuyến học và đầu tư vào cơ sở vật chất giáo dục . Đặc biệt, tỷ lệ học sinh DTTS hoàn thành cấp tiểu học đạt 98,9%, và cấp trung học cơ sở đạt 92%.

Một ví dụ điển hình có thể kể đến là huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên – địa phương thuộc diện đặc biệt khó khăn. Với 23 trường PTDTBT từ tiểu học đến THCS, trong năm học 2023–2024, huyện đã có 6.932 học sinh được hưởng chế độ bán trú theo Nghị định 116/2016/NĐ-CP. Trong đó, cấp tiểu học có 3.449 em, cấp THCS có 3.483 em. Nhờ chính sách này, tỷ lệ học sinh chuyên cần tại các trường luôn đạt trên 95%, cho thấy mô hình bán trú đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực. Học sinh không chỉ được học tập trong điều kiện tốt hơn mà còn được chăm sóc sinh hoạt, tham gia các hoạt động ngoại khóa, rèn luyện kỹ năng sống và tinh thần tự lập.

Các chính sách hỗ trợ học phí, học bổng, xây dựng cơ sở vật chất và phát triển mạng lưới trường lớp, đã giúp giảm bớt những rào cản đối với việc đi học của học sinh DTTS. Đặc biệt, đối với nữ sinh – nhóm gặp nhiều rào cản do yếu tố văn hóa, tập tục và điều kiện kinh tế – việc tăng tỷ lệ đến trường chứng tỏ rằng các biện pháp hỗ trợ đã mang lại hiệu quả. Những chính sách này không chỉ giúp các em nữ sinh có cơ hội học tập mà còn giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của việc học đối với nữ giới.

Tác động tích cực của sự tăng trưởng này còn thể hiện trong việc thúc đẩy bình đẳng giới trong giáo dục tại các vùng khó khăn. Khi nữ sinh DTTS được tiếp cận giáo dục đầy đủ và bình đẳng như nam giới, điều này sẽ giúp cải thiện không chỉ trình độ học vấn của cá nhân mà còn tạo ra một cộng đồng dân tộc thiểu số có khả năng phát triển bền vững. Bình đẳng giới trong giáo dục là bước đi quan trọng trong việc xoá bỏ các định kiến và tạo dựng cơ hội công bằng cho tất cả mọi người, bất kể giới tính hay dân tộc.

Các mô hình nội trú, bán trú đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực. Học sinh DTTS không chỉ được học tập trong điều kiện tốt hơn mà còn được chăm sóc sinh hoạt, tham gia các hoạt động ngoại khóa, rèn luyện kỹ năng sống và tinh thần tự lập.
Các mô hình nội trú, bán trú đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực. Học sinh DTTS không chỉ được học tập trong điều kiện tốt hơn mà còn được chăm sóc, sinh hoạt, tham gia các hoạt động ngoại khóa, rèn luyện kỹ năng sống và tinh thần tự lập.

Những kết quả trên cho thấy, việc đầu tư mở rộng hệ thống trường nội trú và bán trú đã giúp học sinh DTTS tiếp cận giáo dục một cách bền vững, học tập ổn định và lâu dài.

Chăm sóc sức khỏe cho người dân ngày càng tốt hơn

Điều này có thể thấy rõ qua hiệu quả của các chính sách hỗ trợ dành cho đồng bào DTTS. Trong đó, việc hỗ trợ 70% mức đóng BHYT cho người DTTS tại các xã khu vực II, III và thôn đặc biệt khó khăn là một bước chuyển trong chính sách an sinh xã hội, nhằm khuyến khích người dân chủ động tham gia BHYT và nâng cao ý thức bảo vệ sức khỏe.​ Việc này không chỉ bảo đảm quyền tiếp cận y tế cơ bản – một quyền con người thiết yếu, mà còn tạo điều kiện cho người dân được khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế công lập mà không phải lo lắng về chi phí – rào cản lớn từng khiến nhiều hộ nghèo không dám tới bệnh viện khi ốm đau.

Không chỉ góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng, chính sách BHYT miễn phí còn thúc đẩy ý thức phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe chủ động trong người dân, nhất là người DTTS – nhóm đối tượng từng chịu thiệt thòi lâu dài về dịch vụ y tế. Sự thay đổi này không chỉ mang lại lợi ích trước mắt mà còn tạo ra tác động lâu dài, góp phần nâng cao chất lượng sống và chỉ số phát triển con người (HDI) ở các địa bàn khó khăn.

Đáng chú ý, trong những năm gần đây, hệ thống y tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình tích cực nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS).

Trước hết, mạng lưới y tế cơ sở được đầu tư đáng kể cả về nhân lực lẫn cơ sở vật chất. Tính đến năm 2024, khoảng 92,4% trạm y tế xã trên toàn quốc đã có bác sĩ làm việc, trong đó 78,9% có bác sĩ làm việc cơ hữu. Gần 80% trạm y tế xã được xây dựng kiên cố, nâng cao năng lực khám chữa bệnh tại chỗ và mức độ hài lòng của người dân đối với dịch vụ y tế tuyến cơ sở (Nguồn: NLD News).

Song song với đó, mạng lưới y tế lưu động và bác sĩ gia đình đang phát huy hiệu quả rõ rệt tại nhiều địa phương vùng cao. Điển hình, Trạm Y tế xã Mường Và (huyện Sốp Cộp, Sơn La) hàng tháng đều tổ chức đội ngũ y bác sĩ cùng trang thiết bị và thuốc men đến tận các bản xa khám bệnh, tiêm vaccine cho người dân – một mô hình nhân văn giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế mà không bị rào cản về địa lý (Nguồn: Tuổi Trẻ, Báo Phụ nữ Việt Nam, Sở Y tế Quảng Ninh).

Những chính sách và chương trình y tế nêu trên không chỉ giúp đồng bào vùng khó khăn tiếp cận dễ dàng hơn với dịch vụ y tế cơ bản, mà còn từng bước nâng cao chất lượng sống và tuổi thọ trung bình
Những chính sách và chương trình y tế nêu trên không chỉ giúp đồng bào vùng khó khăn tiếp cận dễ dàng hơn với dịch vụ y tế cơ bản, mà còn từng bước nâng cao chất lượng sống và tuổi thọ trung bình

Ngoài ra, nhiều chương trình khám sức khỏe định kỳ và tầm soát bệnh miễn phí đã được triển khai mạnh mẽ. Năm 2025, chương trình “Vì một Việt Nam khỏe mạnh hơn” đã tổ chức khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho hơn 1.000 người dân tại huyện vùng cao Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu với sự tham gia của hơn 50 bác sĩ tuyến trung ương và địa phương. Tại Hà Giang, hơn 26.000 người dân khu vực biên giới đã được khám sàng lọc, tầm soát các bệnh lý nội tiết, tim mạch, hô hấp, xương khớp, mắt, siêu âm, sản khoa... Đặc biệt, tại xã biên giới Mèo Vạc, mỗi người dân được khám sức khỏe định kỳ ít nhất một lần mỗi năm để phát hiện sớm các bệnh lý và kịp thời điều trị .

Đáng chú ý, dự án 585 của Bộ Y tế đã đào tạo và phân bổ hàng trăm bác sĩ chuyên khoa I đến công tác tại các huyện nghèo, vùng núi – nơi vốn thiếu hụt nguồn nhân lực y tế – góp phần nâng cao năng lực chuyên môn tại chỗ và tạo sự gắn bó bền vững với cộng đồng…

Những chính sách và chương trình y tế nêu trên không chỉ giúp đồng bào vùng khó khăn tiếp cận dễ dàng hơn với dịch vụ y tế cơ bản, mà còn từng bước nâng cao chất lượng sống và tuổi thọ trung bình, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu phát triển công bằng, bền vững và nhân văn: “Không ai bị bỏ lại phía sau.” Những kết quả này cũng thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc lấy con người làm trung tâm, tạo đòn bẩy để đồng bào dân tộc thiểu số phát triển bền vững, vươn lên thoát nghèo bằng tri thức và sức khỏe.

Tin cùng chuyên mục
Xóa nhà tạm, nhà dột nát – trách nhiệm từ trái tim: "Chỉ bàn làm, không bàn lùi" (Bài cuối)

Xóa nhà tạm, nhà dột nát – trách nhiệm từ trái tim: "Chỉ bàn làm, không bàn lùi" (Bài cuối)

Với tinh thần “chỉ bàn làm, không bàn lùi”, để không ai bị bỏ lại phía sau trong thụ hưởng Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát, các bộ, ngành Trung ương đã kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh. Các địa phương cũng đã chủ động triển khai nhiều giải pháp sáng tạo, cùng với sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp để hướng tới mục tiêu cả nước không còn nhà tạm, nhà dột nát trong năm 2025.