Chế biến thủy sản xuất khẩu thế mạnh kinh tế hàng đầu của khu vực ĐBSCL.Người nuôi tôm: Khó chồng khó
Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, bất chấp khó khăn và suy thoái kinh tế, năm 2024, ngành tôm Việt Nam đã vượt qua nhiều thách thức, đạt kim ngạch xuất khẩu trên 4 tỷ USD - tăng 14% so với năm 2023, góp phần vào kỷ lục 10 tỷ USD của toàn ngành thủy sản. Dẫn đầu là 3 tỉnh nuôi tôm trọng điểm ở ĐBSCL là: Cà Mau với 1.265 triệu USD, Bạc Liêu 1.210 triệu USD và Sóc Trăng hơn 900 triệu USD.
Dù mức thuế đối ứng 46% với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam vào Mỹ chưa chính thức áp dụng, nhưng đây là dấu hiệu đáng lo nếu sau 90 ngày đàm phán, thuế suất không giảm hoặc giảm không đáng kể. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu tôm truyền thống lớn, chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch tôm, với giá trị từ 800 triệu đến 1 tỷ USD mỗi năm. Nếu mức thuế 46% không được điều chỉnh, tôm Việt Nam gần như sẽ bị “đóng cửa” tại thị trường này, bởi doanh nghiệp sẽ không thể xuất khẩu mà không chịu lỗ - nhất là khi giá thành sản xuất của tôm Việt Nam đang quá cao, khó cạnh tranh với sản phẩm từ các nước nuôi tôm lớn như Ấn Độ và Ecuador.
Giá thành sản xuất tôm Việt Nam đang vượt sức chịu đựng của người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu. Phân tích chuỗi giá trị ngành tôm cho thấy, khoảng 60% lợi nhuận chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp chế biến thức ăn, thuốc thú y và cung cấp con giống - trong đó hơn 90% nguồn cung nằm dưới sự kiểm soát của các công ty nước ngoài. Điều này đồng nghĩa rằng, người nuôi tôm và doanh nghiệp xuất khẩu chỉ được hơn 30% lợi nhuận, trong khi rủi ro và chi phí đầu vào lại tập trung vào khâu cung cấp vật tư.
Nông Dân Bạc Liêu thu hoạch tôm công nghiệp.Ông Trần Thanh Triều, nông dân nuôi tôm công nghệ cao với quy mô 10ha ở Bạc Liêu cho biết: “Nông dân nếu mua thức ăn trực tiếp từ nhà máy sẽ tiết kiệm được khoảng 50% chi phí. Nhưng do thiếu vốn, chúng tôi phải mua trả chậm qua đại lý với giá cao hơn khoảng 20.000 đồng/kg, khiến giá thành tôm loại 100 con/kg đội lên 80.000 - 100.000 đồng/kg”.
Ông Tạ Hoàng Nhiệm, Chủ tịch Hiệp hội Tôm Bạc Liêu kiêm Giám đốc HTX nuôi tôm công nghệ cao cho biết, thức ăn tôm loại 40 đạm mua qua đại lý có giá 40.000 đồng/kg, trong khi mua trực tiếp từ nhà máy chỉ khoảng 27.000 - 28.000 đồng/kg, tức mỗi tấn thức ăn mua qua đại lý đội giá lên 12 - 13 triệu đồng. Với diện tích nuôi 12.000m² như trang trại của ông, chi phí mua thức ăn qua đại lý mỗi vụ nuôi cao hơn khoảng 700 triệu đồng so với mua trực tiếp từ nhà máy.
Trúng mùa tôm mà vẫn lỗ
Theo ông Phạm Hoàng Minh, Giám đốc Ban Quản lý Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm tỉnh Bạc Liêu, thức ăn cho tôm ở Việt Nam chủ yếu do các tập đoàn đa quốc gia có trụ sở tại châu Á chi phối, như CP Foods (Thái Lan), Grobest và Uni-President (Đài Loan), Sheng Long Biotech và Evergreen (Trung Quốc).
Tổng lượng thức ăn cung cấp hằng năm cho ngành tôm, ước trên 1 triệu tấn, được phân phối qua hệ thống ít nhất hai cấp đại lý mới đến tay người nuôi. Do đó, giá bán đến người dùng thường cao hơn 20 - 30% so với giá xuất xưởng. Đây là nguyên nhân chính khiến giá thành sản xuất tôm ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước có đầu tư thức ăn trực tiếp từ nhà máy đến người nuôi như Thái Lan, Ecuador...
Giá thành sản xuất tăng khiến nông dân “được mùa tôm” nhưng vẫn lỗ.Áp lực chi phí này khiến nhiều hộ nuôi tôm “chậm lớn” vì chi phí đầu vào bị thức ăn “ăn mòn” gần hết lợi nhuận, dẫn đến trúng tôm vẫn có thể lỗ nếu giá tôm giảm. Đặc biệt, người nuôi còn phải gánh thêm khoản lãi lớn phát sinh do mua nợ thức ăn từ đại lý theo hình thức trả sau khi thu hoạch, chiếm hơn 90% lỗ vốn do chi phí đầu tư thức ăn quá cao.
Thực trạng chuỗi giá trị ngành tôm cho thấy cần một cuộc cách mạng tái cơ cấu mô hình tăng trưởng, bởi ngành tôm đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế các tỉnh ven biển ĐBSCL. Việc này không chỉ giúp giảm áp lực biến động thị trường tiêu thụ mà còn nâng cao sức cạnh tranh với các nước cùng ngành. Đồng thời, cần tăng tỷ trọng chế biến sâu để gia tăng giá trị sản phẩm.
Tuy nhiên, để giải bài toán giá thành, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và năng lực cạnh tranh cho nông dân, doanh nghiệp nuôi tôm, bên cạnh sự nỗ lực của các địa phương trọng điểm, rất cần sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương, không thể chỉ dừng lại ở quy mô vùng hay tỉnh.
Ngoài ra, tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại và cơ hội hợp tác, xúc tiến tiêu thụ sẽ mở rộng “cánh cửa” cho hàng hóa Việt Nam, nhất là trong bối cảnh thuế quan và rào cản kỹ thuật từ các thị trường nhập khẩu ngày càng phức tạp.
Nhấn: Để giải bài toán giá thành, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và năng lực cạnh tranh cho nông dân, doanh nghiệp nuôi tôm, bên cạnh sự nỗ lực của các địa phương trọng điểm, rất cần sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương. Ngoài ra, tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại và cơ hội hợp tác, xúc tiến tiêu thụ sẽ mở rộng “cánh cửa” cho hàng hóa Việt Nam, trong đó có con tôm xuất khẩu.