Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Công tác Dân tộc

Tìm hướng giảm nghèo bền vững cho vùng DTTS sau sáp nhập

Vũ Mừng - 3 giờ trước

Tại tỉnh Tuyên Quang, giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ hành chính. Bởi vậy, việc sáp nhập giữa những khu vực phát triển và các vùng còn nhiều khó khăn đã tạo điều kiện để tỉnh lựa chọn cách tiếp cận linh hoạt, phù hợp với từng địa bàn, mở ra những mô hình phát triển thiết thực và hiệu quả hơn.

Với đồng bào dân tộc Dao xã Hồ Thầu, tỉnh Tuyên Quang, chè là loại cây trồng chủ lực giúp xóa đói, giảm nghèo
Với đồng bào dân tộc Dao xã Hồ Thầu, tỉnh Tuyên Quang, chè là loại cây trồng chủ lực giúp xóa đói, giảm nghèo

Từ chênh lệch đến động lực phát triển cân bằng

Trước sáp nhập, theo báo cáo tổng kết giai đoạn 2021 - 2025, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều của tỉnh Tuyên Quang giảm từ 23,45% xuống còn 7,38%. Cùng với việc giảm nghèo, tỉnh còn hỗ trợ xóa nhà ở tạm, nhà dột nát cho 13.995 hộ với tổng kinh phí hơn 1.255 tỷ đồng. Nghĩa là giảm nghèo không chỉ đo bằng tỷ lệ phần trăm, mà bằng chất lượng sống được cải thiện một cách hữu hình.

Ở tỉnh Hà Giang cũ, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm bình quân 5,87%/năm trong giai đoạn 2022 - 2025, với 42.365 hộ nghèo được đưa ra khỏi danh sách chỉ trong 3 năm. Dự kiến đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo còn 31,65%. Song song với đó, toàn tỉnh đã hỗ trợ xóa nhà ở tạm, nhà dột nát cho trên 26.000 hộ nghèo và hộ cận nghèo cho thấy nỗ lực không chạy theo con số, mà giải quyết những tồn tại “kéo lùi” chất lượng an sinh.

Chính nguồn lực từ Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 (giai đoạn I: 2021 - 2030) đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giảm nghèo ở cả hai tỉnh. Tổng số vốn phân bổ cho Tuyên Quang và Hà Giang cũ trong giai đoạn này lên tới hơn 9.367 tỷ đồng, được sử dụng cho các dự án cải thiện sinh kế, đầu tư hạ tầng thiết yếu và nâng cao dịch vụ xã hội cơ bản.

Từ bức tranh giảm nghèo giai đoạn trước sáp nhập, có thể thấy hai địa phương tuy xuất phát điểm khác nhau nhưng đều đạt những chuyển biến đáng kể. Sự chênh lệch này không phải gánh nặng, mà trở thành cơ hội để xây dựng cơ chế phối hợp vùng, xác định trọng tâm đầu tư và phân bổ nguồn lực sát nhu cầu thực tiễn. Nhờ cách tiếp cận này, khoảng cách vùng miền được chuyển hóa thành lợi thế: vùng đặc biệt khó khăn tập trung phát triển hạ tầng, sinh kế bền vững và dịch vụ cơ bản, trong khi khu vực Trung du và đô thị đóng vai trò “đầu kéo” về thị trường, thu hút doanh nghiệp và đào tạo lao động.

Trong giai đoạn mới, mục tiêu của tỉnh Tuyên Quang không chỉ là giảm tỷ lệ hộ nghèo, mà còn đảm bảo người dân thoát nghèo bền vững. Thách thức hiện nay là làm sao tích hợp hiệu quả dữ liệu, kinh nghiệm và nguồn lực từ cả hai tỉnh, nhận diện nhóm dễ tổn thương và phân loại nhu cầu hỗ trợ theo chiều sâu. Thay vì triển khai hỗ trợ đại trà, các chương trình cần gắn với quy hoạch dân cư, chuyển đổi sinh kế, phát triển kinh tế bản địa và nâng cao dịch vụ xã hội. Đây chính là bước chuyển từ giảm nghèo tức thời sang tạo sinh kế dài hạn, giúp người dân tự chủ, gia tăng giá trị và nâng cao năng lực thích ứng với biến động kinh tế - xã hội.

Năm 2023 từ nguồn vốn của Tiểu Dự án 1 - Dự án 9, Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I từ 2021 - 2025, HTX dệt thổ cẩm Pà Thẻn, thôn Đồng Tiến, xã Yên Thành, tỉnh Tuyên Quang được thành lập tạo việc làm cho 60 xã viên
Năm 2023 từ nguồn vốn của Tiểu Dự án 1 - Dự án 9, Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I từ 2021 - 2025, HTX Dệt thổ cẩm Pà Thẻn, thôn Đồng Tiến, xã Yên Thành, tỉnh Tuyên Quang được thành lập tạo việc làm cho 60 thành viên

Tạo sinh kế mới, khai thác nội lực và tăng tính tự chủ

Sau sáp nhập, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Tuyên Quang có sự khác nhau giữa các vùng, các dân tộc và khu vực. Nhưng cũng chính sự khác biệt này đòi hỏi các giải pháp sinh kế phải được điều chỉnh, phù hợp với điều kiện đặc thù từng địa bàn. Trên Cao nguyên đá, du lịch cộng đồng, dược liệu và cây chịu hạn có điều kiện thuận lợi để phát triển; vùng lòng hồ, sông suối ưu tiên thủy sản và dịch vụ sinh thái; trung du và ven đô tập trung cây ăn quả, nông nghiệp hữu cơ và chế biến.

Nguồn nhân lực của tỉnh cũng là một dư địa quan trọng. Trước khi sáp nhập, theo Cục Thống kê, năm 2024, Tuyên Quang có khoảng 385,3 nghìn lao động từ 15 tuổi trở lên, trong đó 22,5% đã qua đào tạo; Hà Giang có khoảng 383,1 nghìn lao động trong độ tuổi này, với 22,3% đã qua đào tạo. Nếu được tổ chức đào tạo nghề gắn với doanh nghiệp, xuất khẩu lao động tại chỗ, sản xuất dịch vụ và chế biến nông, lâm sản, lực lượng này có thể trở thành nguồn chuyển đổi sinh kế trực tiếp.

Văn hóa cũng đang được nhìn lại như nguồn lực phát triển. Sáp nhập tạo nên vùng cư trú của hơn 22 dân tộc với kho tàng lễ hội, nghề truyền thống, kiến trúc và ẩm thực đặc sắc. Khi du lịch đại trà bắt đầu bộc lộ hạn chế, hướng phát triển “giữ nguyên bản sắc để làm sinh kế” đang cho thấy hiệu quả rõ hơn chạy theo hạ tầng bê tông hoặc sản phẩm sao chép…

Có thể thấy, sau sáp nhập, nếu tận dụng lợi thế vùng miền, huy động hiệu quả các nguồn lực sẵn có và điều phối thông minh, Tuyên Quang hoàn toàn có thể biến những chênh lệch hiện nay thành động lực bứt phá, không chỉ giúp người dân thoát nghèo, mà còn nâng cao chất lượng sống cho toàn cộng đồng.

Tin cùng chuyên mục
Đồng Nai: Đưa chính sách đến với dân bằng sự lắng nghe và chia sẻ

Đồng Nai: Đưa chính sách đến với dân bằng sự lắng nghe và chia sẻ

Sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo và Mặt trận các cấp là nền tảng để triển khai hiệu quả chính sách dân tộc, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo đồng thuận xã hội và thúc đẩy phát triển bền vững vùng DTTS tỉnh Đồng Nai.