Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Công tác Dân tộc

Vùng đồng bào dân tộc Khmer và những chính sách phát triển hiệu quả

Khánh Thư - 11:16, 05/11/2022

Trong dòng chảy lịch sử của dân tộc ta, đồng bào Khmer là bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán đường lối “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ”, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống chính sách đầu tư, hỗ trợ đồng bộ, ưu tiên bố trí nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer được bảo tồn, phát huy. (Trong ảnh: Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer được tái hiện tại không gian chùa Khmer, Làng dân tộc III, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô - Sơn Tây - Hà Nội)
Văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer được bảo tồn, phát huy. (Trong ảnh: Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer còn được tái hiện tại không gian chùa Khmer, Làng dân tộc III, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô - Sơn Tây - Hà Nội)

Hoàn thiện chính sách phát triển

Đồng bào dân tộc Khmer ở nước ta sinh sống lâu đời trên vùng đất Tây Nam bộ. Theo kết quả điều tra thực trạng KT – XH 53 DTTS năm 2019, do Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp cùng Ủy ban Dân tộc thực hiện, dân tộc Khmer có 1.319,652 người, với khoảng 330 nghìn hộ gia đình, sinh sống tập trung chủ yếu ở 488/691 xã, phường, thị trấn vùng Tây Nam bộ. Trước đó, năm 2009, dân tộc Khmer có 1.260.640 người; bình quân tăng dân số trong giai đoạn 2009 – 2019 là 0,46%/năm.

Trong các địa phương vùng Tây Nam bộ thì, đồng bào Khmer sinh sống tập trung nhiều nhất tại các tỉnh: Sóc Trăng (hơn 404 nghìn người), Trà Vinh (hơn 328 nghìn người), Kiên Giang (khoảng 238 nghìn người), An Giang (hơn 93 nghìn người), Bạc Liêu (hơn 68 nghìn người), Cà Mau (khoảng 42 nghìn người), Vĩnh Long (khoảng 26 nghìn người), Cần Thơ (khoảng 22.705 người),…

 Kết quả điều tra thực trạng KT – XH 53 DTTS năm 2019 còn cho thấy, đồng bào Khmer còn cư trú tại một số tỉnh Trung du miền núi phía Bắc (642 người); vùng đồng bằng sông Hồng (479 người); Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (1.851 người); Tây Nguyên (2.962 người); Đông Nam bộ (172.477 người).

Sự phát triển về dân số và việc cư trú ở khắp mọi vùng miền trên cả nước, là minh chứng cho thấy, đồng bào Khmer là bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta. Với quan điểm nhất quán “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ”, những năm qua, Đảng, Nhà nước đã quan tâm và ban hành nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển KT - XH vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Diện mạo vùng đồng bào Khmer ngày càng khởi sắc. (Ảnh: TL)
Diện mạo vùng đồng bào Khmer ngày càng khởi sắc. (Ảnh: TL)

Có thể kể đến Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 14/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI và Thông báo số 67-TB/TW ngày 14/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X “Về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer”; Nghị quyết số 21/NQ- TW của Bộ Chính trị “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010” và Kết luận số 28-KL/TW ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011 - 2020” nhằm xây dựng tổng thể các chính sách ưu đãi riêng cho đồng bào DTTS ở Đồng bằng sông Cửu Long, trọng tâm là đồng bào Khmer giai đoạn 2014 - 2020 và có Chiến lược phát triển toàn diện đối với đồng bào dân tộc Khmer đến năm 2030, định hướng đến năm 2050; Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018 của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới...

Việc thể chế hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã được Chính phủ, các ban, bộ, ngành và các địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer thực hiện nghiêm túc, cụ thể, phù hợp với sự phát triển chung của cả vùng và từng địa phương. Đến nay, Chính phủ ban hành 100 văn bản thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng đang triển khai thực hiện trên địa bàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có 58 chính sách chung có liên quan đến chính sách đối với đồng bào DTTS và 42 chính sách riêng đối với đồng bào DTTS; chủ yếu là các quyết định phê duyệt các chính sách, dự án quan trọng, toàn diện đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, đối với đồng bào Khmer nói riêng.

Đổi thay vùng đồng bào Khmer

Trong các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo phát triển vùng đồng bào dân tộc Khmer, thì Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 14/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI, có thể xem là văn bản xuyên suốt. Việc thực hiện Chỉ thị được tổ chức sơ kết 2 lần (vào năm 1998 và 2002) và tiến hành tổng kết 15 năm thực hiện vào năm 2006. 

Trên cơ sở sơ kết, tổng kết thực tiễn, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X đã có Thông báo số 67-TB/TW ngày 14/3/2007 tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 68- CT/TW; từ năm 2018, việc thực hiện Chỉ thị số số 68- CT/TW được tiếp tục triển khai theo Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018.

Các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất đã góp phần nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc Khmer. (Trong ảnh: Mô hình sản xuất lúa chất lượng cao ở ấp Ba, xã Phong Phú, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh)
Các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất đã góp phần nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc Khmer. (Trong ảnh: Mô hình sản xuất lúa chất lượng cao ở ấp Ba, xã Phong Phú, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh)

Theo ông Sơn Phước Hoan, nguyên Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Chỉ thị số 68-CT/TW ra đời đã có sức lan tỏa, đi vào cuộc sống, làm thay đổi toàn diện vùng đồng bào DTTS. Bên cạnh đó, việc ban hành Thông báo số 67-TB/TW và các văn bản tiếp nối đã khẳng định Chỉ thị số 68-CT/TW vẫn còn nguyên giá trị để tiếp tục thực hiện; trong đó, cụ thể hóa nhiều nội dung bằng những văn bản mang tính pháp lý. Một số chương trình, dự án dành cho vùng đồng bào DTTS ra đời từ Chỉ thị số 68-CT/TW, trong đó có một số chính sách đặc thù dành riêng cho Đồng bằng sông Cửu Long.

Việc thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 68-CT/TW, đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo vùng đồng bào dân tộc Khmer; đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được nâng lên rõ rệt. Tại thời điểm trước khi Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XII ban hành Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018, theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, các chương trình, dự án triển khai ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, đã xây dựng 90 nghìn nhà ở, hỗ trợ đất sản xuất, đất ở cho 30.025 hộ; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho 18.609 lao động và 5.139 hộ.

Không chỉ góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc Khmer (giai đoạn 2007 – 2018 bình quân giảm 3%/năm), việc thực hiện Chỉ thị số 68-CT/TW đã nâng cao đời sống tinh thần của đồng bào. Tính đến năm 2018, mạng lưới truyền thanh đã tới 100% thôn, ấp; Internet đã được phát triển ở nhiều nơi, tạo điều kiện để đồng bào tiếp cận với nhiều thông tin của cả nước và thế giới. Tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc Khmer có phương tiện nghe, nhìn tăng cao, đạt bình quân 98% như Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long; nhiều địa phương đạt 100%, như Kiên Giang, Cần Thơ.

Lĩnh vực giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc Khmer được quan tầm đầu tư cơ sở vật chất trường lớp và các chính sách hỗ trợ học tập. (Trong ảnh: Trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú Huỳnh Cương, tỉnh Sóc Trăng)
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc Khmer được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất trường lớp và các chính sách hỗ trợ học tập. (Trong ảnh: Trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú Huỳnh Cương, tỉnh Sóc Trăng)

Đặc biệt, cấp ủy Đảng các cấp ở các địa phương trong vùng đã thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác tôn giáo nói chung, Phật giáo Nam tông Khmer nói riêng. Qua đó, đã giúp cho hoạt động của Phật giáo Nam tông Khmer ổn định, đúng hướng tạo niềm tin của sư sãi và tín đồ đối với Đảng, Nhà nước. Từ năm 1991 đến nay, đã có nhiều vị tiêu biểu trong đồng bào Khmer đại diện tham gia Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.

Theo Hòa thượng Thạch Sóc Xane, Phó Chủ tịch Hội đoàn kết Sư sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh, Chỉ thị số 68-CT/TW ra đời đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc tổ chức tôn giáo trên địa bàn, từ đó Hội Đoàn kết sư sãi đã phát huy được uy tín trong đồng bào. 

Những năm qua, vùng đồng bào Khmer luôn được ưu tiên đầu tư, hoàn thiện hệ thống hạ tầng, đồng bào được hỗ trợ phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần; tỷ lệ hộ nghèo được kéo giảm, các phong tục tập quán của người Khmer được giữ gìn và phát huy.

Sự phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, đã góp phần quan trọng tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Những kết quả trên đã lần nữa minh chứng, tỏ rõ sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước đối với Nhân dân cả nước nói chung, đồng bào Khmer Nam Bộ nói riêng; Đồng thời, khẳng định tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa đồng bào dân tộc Khmer, với các dân tộc anh em trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam luôn bền vững, không thế lực nào có thể chống phá, chia rẽ được.

Giai đoạn 2021 – 2025, các địa phương Tây Nam bộ đã dược trí nguồn lực để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn I. Như, Sóc trăng dự kiến đầu tư gần 800 tỷ đồng xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, thiết chế xã hội, thúc đẩy phát triển KT - XHvùng đồng bào dân tộc Khmer; Trà Vinh sẽ thực hiện 10 dự án với tổng kinh phí hơn 1.400 tỷ đồng để nâng cao mức sống cho đồng bào DTTS toàn tỉnh; An Giang bố trí gần 183,5 tỷ đồng; Cà Mau là hơn 374,6 tỷ đồng…

Tin cùng chuyên mục
Xây dựng nông thôn mới ở miền núi Quảng Ninh: Sức bật từ Nghị quyết 06

Xây dựng nông thôn mới ở miền núi Quảng Ninh: Sức bật từ Nghị quyết 06

Cách đây 3 năm, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết 06-NQ/TU, ngày 17/5/2021 về phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng – an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 (Nghị quyết 06). Với nguồn lực được ưu tiên, nhiều cách làm sáng tạo, việc triển khai Nghị quyết 06 đã tạo sức bật cho những địa bàn khó khăn của tỉnh, nhất là trong xây dựng nông thôn mới.