Analytic
Báo Dân tộc và Phát triẻn
Chuyên trang

Dân tộc - Tôn giáo với sự phát triển của đất nước

Phóng sự

Những người đi mở đất

Bút ký của Nguyễn Vũ Điền - 9 giờ trước

Họ là những người đầu tiên từ miền xuôi đặt chân lên mảnh đất Sơn La sau thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ, mang theo ước vọng về một cuộc sống mới, khai mở vùng đất hoang, dựng nên những bản làng trù phú nơi rừng sâu núi thẳm. Hơn 60 năm đã qua, bóng dáng họ vẫn còn in dấu trên từng con dốc, từng bờ ruộng bậc thang, từng vườn cây ăn trái, từng nương cà phê trĩu quả và cả trong ký ức của thế hệ hôm nay…

Trung tâm xã Chiềng Mung hôm nay. Ảnh TL
Trung tâm xã Chiềng Mung hôm nay. Ảnh TL

Cách đây 65 năm, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) và Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hưng Yên, hơn 1.300 đảng viên, đoàn viên, thanh niên nông thôn độ tuổi 20 - 35 thuộc 9 huyện của tỉnh Hưng Yên đã tình nguyện rời quê hương, xung phong lên Tây Bắc khai hoang, lập nghiệp. Họ là những người con ưu tú, mang trong tim ngọn lửa tuổi trẻ và khát vọng cống hiến cho sự phát triển lâu dài của đất nước.

Sau 3 ngày 3 đêm vượt núi băng đèo, cuối cùng họ cũng đặt chân đến miền đất Sơn La, khi ấy còn hoang vu, lưa thưa những nếp nhà sàn gỗ lợp tranh. Đêm xuống chỉ nghe tiếng suối và tiếng côn trùng vọng giữa núi rừng.

Chúng tôi dựng lán, phát nương, trồng ngô, trồng sắn… Rừng già ngập mắt, muỗi mòng dày đặc, cái rét thấu xương xuyên qua manh áo mỏng, thế nhưng lòng người thì vẫn ấm. Đêm đến, anh em quây quần bên bếp lửa, chia nhau từng củ khoai, kể chuyện quê nhà để quên đi cái đói, cái nhớ.

Khi vừa đặt chân lên mảnh đất Chiềng Mung còn đầy gian khó, những người đi khai hoang đã thành lập Hợp tác xã Hoàng Văn Thụ - lấy tên người chiến sĩ cộng sản kiên trung như một biểu tượng cho khát vọng đổi đời. HTX gồm 7 đội, trong đó có 6 đội sản xuất nông nghiệp và 1 đội thủ công. Không máy móc, không điện, chỉ có cuốc, xẻng, rìu, búa và đôi bàn tay chai sạn của những người trẻ rời xa đồng bằng để gieo mầm sự sống giữa rừng sâu.

Việc gì cũng phải tự lo. Ai biết rèn thì làm cuốc, dao. Người thạo mộc dựng nhà, đóng bàn ghế. Người khéo tay học làm miến dong, ép đậu phụ để đổi bữa. Mọi thứ bắt đầu từ con số không. Từng tấc đất được phát dọn, từng thửa ruộng được khai phá bằng mồ hôi, máu và niềm tin.

Trong những đêm dài chông chênh ấy, lời dặn của Bác Hồ lại vang lên như ngọn đuốc trong tâm khảm: “Các cô, các chú được Đảng, Chính phủ giao nhiệm vụ lên Tây Bắc cùng đồng bào đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng quê hương mới… Tây Bắc phải trở thành phên giậu của quốc gia…”. 

Câu nói ấy như mạch nguồn truyền lửa. Nếu bỏ cuộc thì ai sẽ làm thay? Nếu không có hôm nay, làm sao có ngày mai? Thế là họ lại vượt mọi khó khăn bám đất, dựng nhà, trồng cây, dạy con trẻ học chữ. Giữa gian khó, hy vọng vẫn le lói, lớn dần từ đôi bàn tay, từ những mầm xanh đầu tiên mọc lên giữa đất đá, và từ niềm tin vào tương lai sáng lạn.

Hơn 6 thập kỷ đã trôi qua, HTX Hoàng Văn Thụ - nơi từng là điểm khai hoang đầu tiên, nay đã trở thành vùng kinh tế nông nghiệp trù phú. Những thửa ruộng nương xưa kia cằn cỗi giờ nhường chỗ cho những vườn cây trĩu quả, những nông trại xanh mướt trải dài theo triền đồi. Vùng đất “nước độc, rừng thiêng” thuở nào nay là miền đất hứa.

Qua lời giới thiệu của bà con HTX, chúng tôi đã tìm gặp được ông Phan Trọng Choắt - một nhân chứng sống. Quê ông ở xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (nay đã sáp nhập vào xã Đồng Tiến). Năm lên Sơn La, ông mới 22 tuổi, nay đã 87. Vợ chồng ông đang sống tại xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn cũ (nay là xã Chiềng Mung, tỉnh Sơn La). Dù tóc bạc trắng, giọng ông vẫn sang sảng, ánh mắt sáng và minh mẫn đến lạ thường, như thể ngọn lửa năm xưa chưa hề tắt trong lòng "người lính khai hoang" của thế kỷ trước.

Ông Choắt kể: “Tôi mang theo ba quả nhãn lồng - thứ đặc sản tiến vua của quê nhà lên đây lấy hạt trồng ở bãi đất trước sân. Cây nhãn ấy nay đã to, mỗi mùa kết trái, tôi lại hái chia cho con cháu”. Rồi ông kể về Khoái Châu, về sông Hồng, về mùa nhãn quê hương. Không chỉ là quả ngọt, đó là ký ức, là căn cước của ông giữa vùng đất lạ này.

Nhìn vào khu vườn nhỏ xanh um trước nhà, nơi có cây nhãn năm xưa trĩu quả, ông chậm rãi chia sẻ: “Quê hương không chỉ ở nơi mình sinh ra mà còn là nơi mình đổ mồ hôi, vun trồng và để lại dấu chân đầu tiên. Và Sơn La, với tôi chính là quê hương thứ hai, nơi tuổi thanh xuân hóa thành đất, thành cây trên vùng đất mới”.

Hoa thơm trái ngọt đã bén rễ nơi đây. Từ giống cây đầu tiên như nhãn, mơ, mận, người dân không ngừng học hỏi, lai tạo, mở rộng mô hình sản xuất. Vùng đất nay nổi tiếng với xoài, thanh long ruột đỏ, dâu tây hữu cơ... tiêu thụ rộng rãi trong nước, xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Đặc biệt, giống cà phê Arabica - vốn ưa khí hậu khắc nghiệt đã bén đất, bén người nơi đây, trở thành cây trồng chủ lực, mang lại giá trị kinh tế cao.

Bản làng hôm nay đã đổi thay. Nhà xây mái đỏ mọc lên san sát, ô tô, xe máy không còn là xa xỉ. Đường đất đỏ trơn trượt nay đã thảm nhựa, bê tông hóa. Không còn hộ nghèo, đời sống vật chất, tinh thần người dân ngày càng nâng cao. Con em trong bản được đến trường, nhiều em đã trở thành kỹ sư, bác sĩ, giáo viên quay về góp sức cho quê hương.

Sự hòa quyện giữa đồng bào Kinh và dân tộc Thái nơi đây không chỉ tạo nên giao thoa văn hóa mà còn hình thành cộng đồng đoàn kết, cùng làm, cùng hưởng, cùng phát triển. HTX Hoàng Văn Thụ hôm nay là minh chứng sống động cho tinh thần đổi mới, sáng tạo, cho khát vọng vươn lên của những người dám nghĩ, dám làm trên vùng đất Tây Bắc giàu tiềm năng.

Tin cùng chuyên mục
"Loa Hồ Ba" đưa chính sách dân tộc về với bà con Bru Vân Kiều

"Loa Hồ Ba" đưa chính sách dân tộc về với bà con Bru Vân Kiều

Chiếc loa cũ, chạy bằng bình ắc quy ở bản Hôi Rấy, xã Trường Sơn, tỉnh Quảng Trị được dân bản quen gọi là “Loa Hồ Ba”. Mỗi đợt Trưởng bản Hồ Ba cất liếng loa lên, người Bru Vân Kiều ở bản Hôi Rấy lại chăm chú lắng nghe. Để rồi chủ trương, chính sách, công tác dân tộc theo tiếng “Loa Hồ Ba” về nơi bản nhỏ.